Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012

Bàn thờ Tết ở Nam bộ

Đối với dân tộc ta, chữ hiếu được xem là một trong những thước đo phẩm chất cao quý của con người. Một trong những cách thể hiện cho trọn chữ hiếu là việc thờ cúng ông bà, tổ tiên. Cây có gốc, sông có nguồn, con người có tổ tông. Vì vậy đối với mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được xem là nơi thiêng liêng nhất, tôn kính nhất để mọi thành viên nhớ về nguồn gốc, công ơn của tổ tiên, ông bà.
Trong quan niệm dân gian, mặc dù con người đã chết nhưng linh hồn vẫn còn sống, thường trở về phù hộ cho con cái làm ăn phát đạt, mạnh khỏe. “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, những dịp giỗ chạp, lễ tết, người ta hay cúng, cầu mong ông bà về ăn cơm với gia đình và đó là sợi dây vô hình nối giữa người còn sống và người đã chết. Đó cũng là yếu tố vững chắc nhất để liên kết các thành viên trong mỗi gia đình. Những dịp cúng ông bà, tổ tiên, con cháu, dòng họ từ các nơi đổ về cúng, vui chơi, tâm sự, sẻ chia những nỗi niềm là dịp gắn bó những người trong dòng họ thêm vững chắc hơn.
Ngày xưa, ở Nam bộ, bàn thờ ông bà còn gọi là giường thờ. Đem giường mà cha mẹ thường nằm để thờ ngay giữa nhà, giữ nguyên vị trí cái ô trầu, cái gối. Phía trước giường thờ, xưa kia bố trí cái bàn bốn chân. Trên mặt bàn chưng bộ lư, chân đèn, vùa hương. Gọi đó là cái “bàn nghi”, để phủ dưới chân bàn dùng tấm vải đỏ, thêu rồng phượng hoặc chữ Hán, chúc phước. Lúc cúng giỗ, dọn thức ăn lên giường thờ, hơi thấp, sát vách khách không thấy được, trên “bàn nghi” thì thắp nhang. 
Nhưng lần hồi, đơn giản hóa, giường thờ được thu hẹp như cái bàn nhỏ rộng chừng 30cm, đủ dọn bốn món cúng. Đầu thế kỷ XX, thợ người Pháp sang Thủ Dầu Một tận dụng nguồn danh mộc địa phương để đóng tủ theo kiểu thời Louis XVI, dạng cách ráp mộng, chạm trổ vài hoa văn mới, hấp dẫn nhất là những hàng chuỗi màu đen chạy dài từ trên xuống dưới, mặt tiền thì bít kín với tấm ván to, hình hột xoài, uốn cong. Dân ta mô phỏng cái tủ thờ này thay cho cái giường thờ. Ở Gò Công, thợ đóng tủ sau năm 1930 đã nổi danh với kiểu tủ Gò Công, mặt tiền chạm hai hàng chuỗi khít nhau, gợi hình dáng hai cánh cửa để tượng trưng.
Tranh thờ trước kia viết những chữ Hán to như từ đường, phước, thọ hoặc vẽ tranh sơn thủy, có vách núi chênh vênh, có suối chảy, cây tùng, mà vẽ từ sau mặt kiếng, kèm theo hai bên bức tranh là đôi câu liễn đối, ví dụ:

Tổ tông công đức thiên niên thạnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh

Hoặc:
Phụ nghĩa sinh thành sơn nhạc trọng
Mẫu ân cúc dục hải hà thâm.

Những gia đình giàu có thường mua tủ thờ bằng loại cây tốt, sơn màu đen bóng, có cẩn xà cừ hoặc dùng tủ kính lớn để làm tủ thờ. Phía trên đặt bàn thờ gia tiên, trong tủ trưng đồ đạc. Trên bàn thờ có bài vị và ảnh của ông bà, cha mẹ, cũng có thể có thêm bức bình phong lộng kiếng lộng lẫy. Trên bức bình phong ghi những câu liễn đối bằng chữ Hán nói về công đức của ông bà. Cách bài trí trên bàn thờ thường có bình hương để chính giữa, cặp chân đèn để hai bên, bình bông dùng để cắm bông tươi. Ngoài ra, còn có trà rượu, trái cây, vào những dịp cúng tế còn thêm xôi thịt...
Ngoài những ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được tổ chức vào các ngày đầu năm của dịp tết. Đây cũng là dịp cúng long trọng vì con cháu tụ về đông đủ, mỗi người góp chút đỉnh công sức, tiền của để cúng ông bà trong dịp lễ đầu năm. Đúng giao thừa, người ta đặt những thức cúng lên bàn thờ gia tiên, thắp hương tưởng niệm, khấn vái, rước ông bà ông vải về nhà cùng con cháu vui xuân. Sau ngày cúng giao thừa đó, các ngày tết tiếp theo, nhà nào cũng đặt những chén cơm, đồ ăn lên bàn thờ để cúng đến hết tết mới làm lễ tiễn ông bà. Đến lúc đó việc thờ cúng gia tiên trong ngày tết mới xong.
Trên bàn thờ của tổ tiên không thể thiếu mâm ngũ quả được bày biện gọn gàng, đẹp mắt ở vị trí trang trọng. Mâm ngũ quả phải có đủ năm loại trái cây, việc chọn các loại quả để cúng tổ tiên cũng có sự khác nhau ở từng vùng. Có nơi người ta dùng ý nghĩa của màu sắc để thể hiện quan niệm tốt lành của mình trong ngày tết, chẳng hạn màu xanh tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của thiên nhiên nên chọn những quả chuối xanh; màu vàng tượng trưng cho sự ấm no nên chọn trái bưởi, trái đu đủ... Nhưng có nơi lại dùng ý nghĩa tên gọi của từng loại quả để thể hiện ước vọng an lành của mình trong ngày xuân, như hồng, quýt rực lên màu sắc tượng trưng cho sự thành đạt; phật thủ như bàn tay che chở... Riêng ở Nam bộ, mâm ngũ quả vẫn cứ như truyền thống là: mãng cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài để gửi gắm một ước mơ đơn sơ, bền bỉ, có chút khiêm nhường: Cầu sung vừa đủ xài!
Mâm ngũ quả ngày tết đã tạo cho các gia đình không khí ấm áp, trang nghiêm, hòa quyện cùng các sản vật khác thể hiện sự phong phú của hoa trái thiên nhiên, thành quả lao động mệt nhọc sau một năm gặt hái, giúp cảnh xuân và tình xuân thêm ý vị, vui tươi. Nó cũng thể hiện được triết lý phương Đông của nền văn hóa lúa nước, thể hiện được đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, có lộc trời thì thành kính dâng lên tổ tiên, tạ ơn trời đất...


Trên bàn thờ của tổ tiên không thể thiếu mâm ngũ quả
Ngoài bàn thờ gia tiên, ở Nam bộ, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo, thờ ông Địa, ông Thần Tài. Trang thờ được bố trí ở trên cao, nơi gian giữa. Trên trang thờ có đôi chân đèn nhỏ, lư hương, bình bông, mâm dĩa trái cây, chung rượu, tách nước.
Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phước, trừ ma diệt quỷ.
Riêng các vị Thần Tài, Ông Địa chỉ thờ dưới đất, trong góc hẹp, được lý giải bởi một truyền thuyết sau: Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to. Về sau, đúng vào một hôm ngày tết, Âu Minh giận, bèn đánh Như Nguyệt. Sợ hãi, Như Nguyệt chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết.
Người ta bảo Như Nguyệt là Thần Tài và người ta lập bàn thờ Như Nguyệt. Từ đó, ngày tết ta có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt, tiến tới được.
Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của Thần Đất (Thổ Địa) - vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành...) và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh. 
Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.
Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.
Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lai lộc tấn. Vì vậy, cư dân Nam bộ hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa - vị thần cai quản đất đai, nhà cửa. Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.
Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một điều vô cùng hệ trọng, có truyền thống lâu đời, là một biểu hiện của văn hóa dân tộc, đến mức nâng lên thành đạo - đạo thờ ông bà, đạo làm con. Những khi trong nhà có việc vui mừng như sinh con, cưới gả, khao vọng..., người ta đều làm lễ cáo yết gia tiên, bởi vì:
Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Người ta nguồn gốc từ đâu
Có cha mẹ trước rồi sau có mình.

Theo TRẦN PHỎNG DIỀU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét