Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Doãn Mẫn


"Doãn Mẫn sinh ngày 15 tháng 10 năm 1919
tại thôn Đoài làng Hoàng Mai (kẻ Mơ) Hà Nội.
Cha của ông là Doãn Tính, một viên chức ởga Hàng Cỏ,
nhưng mê âm nhạc dân tộc và chơi đàn bầurất hay.
 Được cha hướng dẫn, từ nhỏ Doãn Mẫn đã biết chơi đàn tứ và một vài nhạc cụ truyền thống khác.
Sau khi tốt nghiệp Trường nam Sư phạm,
ông vào làm thư ký tại bệnh viện Bạch Mai.
hơi đàn bầu rất hay. Được cha hướng dẫn, từ nhỏ Doãn Mẫn đã biết chơi đàn tứ và một vài nhạc cụ truyền thống khác. Sau khi tốt nghiệp Trường nam Sư phạm, ông vào làm thư ký tạibệnh viện Bạch Mai." (Báo Tuổi trẻ )
Tác phẩm :
  • Bến yêu đương
  • Biệt ly
  • Cô lái thuyền
  • Dũng tiến
  • Gió thu
  • Gió xa khơi
  • Gọi nghé trên đồng
  • Hương cố nhân
  • Một buổi chiều mơ
  • Một buổi chiều thu
  • Một hình bóng
  • Nhạc chiều
  • Nhắn người chiến sĩ
  • Những mầm sống
  • Sao hoa chóng tàn
  • Sông Thao
  • Tiếng hát đêm thu
  • Trở lại cùng anh
  • Từ đâu tiếng tơ (Theo Wiki)

Doãn Mẫn "biệt ly" từ đây...
Lao Động số 87 Ngày 17/04/2007 
(LĐ) - Tin nhạc sĩ Doãn Mẫn tạ thế ập đến tôi vào một sớm rây mưa Hà Nội thật buồn. Vậy là người nhạc sĩ cuối cùng của nhóm "Tricéa" thời đầu tân nhạc đã ra đi ở tuổi 88.
Ngày ấy, ở quanh Nhà thờ Lớn Hà Nội có rất nhiều thanh niên đem lòng say mê âm nhạc khi bị quyến rũ bởi những giai điệu thánh ca.
Giữa nhiều thanh niên đó, Doãn Mẫn đã không nghĩ như thế. Ông đã cùng Văn Chung và Lê Yên lập ra nhóm "Tricéa" chủ trương sáng tác những giai điệu hướng về dân tộc.

Ngay từ ca khúc đầu tay "Tiếng hát đêm thu" (lời: Văn Chung), Doãn Mẫn đã trở thành một trong không nhiều tác giả tân nhạc thời kỳ đầu, vừa như một tuyên ngôn về thẩm mỹ âm nhạc riêng mình. Rồi liên tiếp những "Gió thu", "Một buổi chiều mơ", "Bến yêu đương", "Sao hoa chóng tàn", "Từ đâu tiếng tơ", "Hương cố nhân", "Nhạc chiều", "Gió khơi xa"... và đặc biệt là "Biệt ly" được ông sáng tác vào năm 1939 đã làm xao động bao con tim của nhiều thế hệ mến mộ âm nhạc.

Năm ấy là năm Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nhiều người dân Việt bị buộc phải đi lính thợ sang Pháp tham chiến. Bến cảng Hải Phòng là nơi diễn ra cảnh chia tay như thế.

Thực ra, cảm xúc lúc chia tay đã trở thành cảm hứng thường nhật của văn nghệ sĩ thời tiền chiến, nên để có một cái gì ấn tượng, một cái gì khác thường đâu dễ. Vậy mà Doãn Mẫn đã bất hủ với "Biệt ly" và sau ông là Thâm Tâm với "Tống biệt hành". Nhưng nếu "Tống biệt hành" đầy chất cổ thi bi hùng, khảng khái "Đưa người ta không đưa qua sông/Sao có tiếng sóng ở trong lòng..." thì ở "Biệt ly" lại tràn trề một sự tươi mới, nồng nàn và lãng mạn: "Biệt ly/Nhớ nhung từ đây/Chiếc lá rơi theo heo may/Người về có hay - Biệt ly/Sóng trên dòng sông/Ôi còi tàu như xé đôi lòng...".

Người ra đi cùng "mây trôi nước trôi ngày tháng trôi" mà nhớ thương thì vẫn dư ảnh lại mãi cùng nhân gian. Và cứ thế, "Biệt ly" đã vượt qua năm tháng để trở thành một trong những tình khúc bất tử của mọi thời đại ở Việt Nam.

"Thời viết Biệt ly, nhạc sĩ Doãn Mẫn mới tròn 20 tuổi. Vì cha làm việc tại ga Hàng Cỏ, nhà lại ở gần ga nên ông thường ra đây chơi. Ở sân ga ấy, ông chứng kiến những cuộc chia tay đẫm lệ của những cặp trai gái yêu nhau, mà vì hoàn cảnh mà phải ly tán mỗi người mỗi hướng. Những cảm xúc ấy khiến người nhạc sĩ đa cảm này viết nên Biệt ly đầy nước mắt. Mấy phút bên nhau rồi thôi/ Đến nay bóng em mờ khuất/ Người về u buồn khắp trời/ Người ra đi với ngàn nhớ thương... Những lời ca não nuột đã khiến bao thế hệ trai tráng thời đó phải ngẩn ngơ. " (Trung Hiếu )

"Chính vì có tấm lòng chân thành hướng về dân tộc, ngay từ 1944, Doãn Mẫn đã viết "Nhắn người chiến sĩ" mang âm hưởng không khí cách mạng thời chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Bài hát lạc quan này được hát những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Lúc này, ông đã có thêm hành khúc "Dũng tiến" được Đinh Ngọc Liên chuyển soạn cho dàn quân nhạc.

Rồi "Những mầm sống", "Sông Thao"... khi ở Đoàn văn công Nhân dân cùng Lê Yên. Sau hoà bình, Doãn Mẫn lại có "Gọi nghé trên đồng" (lời Hồng Đăng) cũng rất ấn tượng. Khi đó, ông đã về công tác tại Trường Âm nhạc Việt Nam - nay là Nhạc viện Hà Nội. Đến khi về Viện Âm nhạc, ông đã công bố hai công trình: "Góp phần tìm hiểu sự hình thành nền âm nhạc cải cách Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945" và "Những bước phát triển trong công tác đào tạo cán bộ âm nhạc từ Cách mạng tháng Tám đến năm 1975".

Thời trai trẻ, chính nhờ cuốn "Tự học xướng âm" của ông cùng cuốn "Ký âm phổ thông" của Phạm Tuyên, chúng tôi đã thoát nạn "mù nhạc" và có đứa còn cao hứng sáng tác ca khúc bằng khả năng xướng âm tự học của mình. Khi tôi được gặp Doãn Mẫn ở phố Nhà Thờ thì ông đã vào tuổi "cổ lai hy".

Lúc đó, nhờ đổi mới, những ca khúc lãng mạn thời tiền chiến, trong đấy có "Biệt ly" đã được trình diễn trở lại sau nhiều thập kỷ vắng bóng. Doãn Mẫn thường nhỏ nhẻ, tươi vui trong một dáng vẻ lão thực. Nhiều câu chuyện thú vị về thời xa xưa đã được ông kể lại say sưa.

Năm ngoái, vào đầu hạ, cả Hà Nội đã thương buồn đưa tiễn tài tử Ngọc Bảo - người hát "Biệt ly" hay nhất - vào cõi vĩnh hằng. Năm nay, lại là cuộc đưa tiễn chính tác giả "Biệt ly" - người cuối cùng của nhóm "Tricéa" ra đi. Cầu mong ông yên giấc ngàn thu."

Nguyễn Thụy Kha

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét