Nguyễn
Duy viết nhiều đến mức ông chế biến ra không ít bài thơ hời hợt mà
chính ông cũng không đủ thời gian để nhẫn nại chỉnh sửa hoặc nhẹ nhàng
tiêu hủy.
Trong
những nhà thơ Việt Nam đương đại, có lẽ Nguyễn Duy là tên tuổi được phổ
cập tương đối rộng rãi vào quần chúng. Nói về sáng tạo thì luôn tồn tại
nghịch lý. Ở lĩnh vực công nghệ, người làm ra cái xe đạp và người làm
ra cái xe hơi không bao giờ có sự nhầm lẫn. Thế nhưng, ở lĩnh vực nghệ
thuật, những bài thơ "đẳng cấp xe đạp" vẫn lắm lúc tạo ra nhà thơ "đẳng
cấp xe hơi". Sự may mắn ấy như lộc trời, cho ai thì người ấy được, chẳng
thể so bì hay đố kỵ.
Sau nhiều tập đơn lẻ, thơ
Nguyễn Duy được tuyển chọn lại thành một cuốn hơn 400 trang, do NXB Hội
Nhà Văn và công ty Nhã Nam ấn hành, giúp độc giả khái quát được ba yếu
tố làm nên danh tiếng Nguyễn Duy: Thứ nhất, vần điệu nhịp nhàng, dễ đọc
dễ thuộc. Thứ hai, tác giả có khả năng trình diễn để tiếp cận công
chúng. Thứ ba, năng lực thẩm mỹ của người viết có nét tương đồng với
không khí xã hội nên được hiệu ứng đám đông đẩy lên cao.
| Chân dung nhà thơ Nguyễn Duy. Ảnh: N.D. |
Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Duy khởi động từ cuộc thi thơ năm 1972-1973 do báo Văn nghệ tổ chức. Giải nhất đồng hạng cùng Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm và Nguyễn Đức Mậu, bốn bài thơ của Nguyễn Duy làBầu trời vuông, Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cườiđược xem như một phát hiện mới lạ ở giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Có
vẻ như xác định được "mỏ vàng lộ thiên" ở bản thân, Nguyễn Duy tăng tốc
với kiểu thơ thăng hoa khái niệm "là". Nào "ở đây là tấm lòng ta, sông
dài núi rộng cũng là ở đây", nào "trong veo là nắng với trời", nào "bao
nhiêu là giọt mưa rào", nào "bao nhiêu là bóng siêu nhân", nào "cũ xưa
đến vậy là cùng"… Hình như Nguyễn Duy muốn chứng minh thi ca không có
chữ "là" sẽ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy bạn đọc tinh
tường dễ dàng nhận ra nhiều câu thơ nửa như tấu nói nửa như hò vè.
Người
rất yêu Nguyễn Duy có thể bào chữa thơ ông đã đạt đến mức giản dị, còn
người ít yêu Nguyễn Duy có thể đánh giá thơ ông nhiều chỗ dễ dãi. Chẳng
sao, mỗi lần Nguyễn Duy đọc lên vẫn có khối kẻ hào hứng đấy. Phong cách
thơ Nguyễn Duy không dành cho những ai tìm đến văn chương để một mình
suy tư, mà cực kỳ phù hợp với không gian xúm xít lim dim đôi mắt, dong
dỏng đôi tai. Ngay cả những câu thơ riêng tư nhất viết về vợ thì giọng
điệu Nguyễn Duy vẫn như đang có MC của Đài truyền hình VN cầm micro dí
trước mặt: "Móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc/ Vợ dìu ta tầng bậc thang
mòn"!
| Tập thơ vừa phát hành của nhà thơ Nguyễn Duy. |
Không
thể nói khác hơn, Nguyễn Duy hoàn toàn mang dáng dấp một danh ca của
làng thơ nước nhà. Để tận dụng triệt để ưu điểm này, ngay khi đánh vật
với món ngôn ngữ nôm na điệu nghệ, Nguyễn Duy đã nghĩ đến quyền lợi của
giới thưởng ngoạn. Ví dụ, bài thơ Cơm bụi ca có thể xem như dấu
son cho thể loại lục bát của Nguyễn Duy, lẽ ra phải kết thúc với hai
câu gợi mở "Xin nghe anh nói cực nghiêm/ linh hồn cát bụi ở miền trong
veo", thì ông sợ những người mộ điệu mãi ngẫm ngợi mà quên… tán thưởng,
nên viết thêm hai câu "Rủ nhau cơm bụi giá bèo/ yêu nhau theo mốt nhà
nghèo… vô tư" để ai cũng kịp nhận ra tiết mục diễn ngâm đã chấm dứt.
Giữa thời buổi tri thức luôn sốt ruột nhiều thứ, hiếm hoi lắm mới có một
người cầm bút biết đoán định nhu cầu khán giả như Nguyễn Duy!
Từ
khi quyết tâm bỏ tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ để lấy bút danh Nguyễn
Duy cho đến khi tuyên bố ly thân với nàng thơ, nhà thơ Nguyễn Duy đã có
một phần tư thế kỷ viết miệt mài. Nguyễn Duy viết nhiều đến mức ông đưa
dăm ba câu ca dao vào thơ như "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm
búng lưỡi lừa cá xương" hay "Không trầu mà cũng chẳng cau, làm sao cho
thắm môi nhau thì làm" mà nhiều người ngỡ ca dao ăn theo ông chứ không
phải ông ăn theo ca dao!
Nguyễn Duy viết nhiều đến
mức ông chế biến ra không ít bài thơ hời hợt mà chính ông cũng không đủ
thời gian để nhẫn nại chỉnh sửa hoặc nhẹ nhàng tiêu hủy, như bài Cô bé nhà bên chỉ từa tựa tạp văn có ngắt xuống dòng, như bài Xiếc trên dây nếu
không có câu thơ của Bạch Cư Dị làm đề từ thì chẳng khác gì đoạn văn
tường thuật show diễn tạp kỹ đang cần bán vé. Những ai khó tính nhiều
khi đọc bài thơ ký tên Nguyễn Duy đâm ra giận… nhà in, vì tưởng nhân
viên kỹ thuật tắc trách đã dán nhầm tác phẩm trên báo tường nào vào vị
trí lẽ ra phải dành trang trọng cho thơ Nguyễn Duy, chẳng hạn bài Trên đồng bông Phước Sơn hay bài Gửi về Lam Sơn viết
dằng dặc mong nhớ mà không có một câu thơ nào! Nói cách khác, trong nỗi
đam mê chinh phục, Nguyễn Duy quên mất một phẩm chất cần thiết cho tầm
vóc nhà thơ là phải biết hoài nghi những tràng vỗ tay phấn khích.
Thế mạnh của Nguyễn Duy nằm ở sự nhận diện nhanh nhạy và khái quát sắc sảo. Với Lạng Sơn, 1989,
ông nảy một ý thơ lý thú: "AQ túm tóc Chí Phèo, để hai bác lính nhà
nghèo đều thua". Vì vậy, đọc thơ Nguyễn Duy không ai dám nghi ngờ năng
lực một nhà báo chuyên nghiệp ở Nguyễn Duy. Nhiều bài thơ dẻo dai nghe
Nguyễn Duy lĩnh xướng rất hay, nhưng thực chất được hình thành theo công
thức: nhiều khổ báo cộng một khổ thơ.
Bài Thơ tặng người ăn mày là
một câu chuyện có vần được cứu vớt bởi một đoạn thơ "Bây giờ đồng trắng
nước trôi/ Bàn tay chìa vào mặt tôi gấp gáp/ Hay là chính mẹ tôi từ
trong đất/ Dắt đất lên để thử lòng tôi chăng?".Bài Pháo Tết lắp
ghép nhiều góc ảnh chụp đời thường có một đoạn thơ thổn thức “Cả thành
phố như khói/ Khét lẹt mờ mịt mây/ Có một cô điếm ế/ Đón giao thừa gốc
cây".
Trong nhiều trường hợp, rất khó phân biệt Nguyễn Duy viết báo bằng thơ, hay viết thơ bằng… báo. Lặn lội Ghi chép ở chùa Hương,
Nguyễn Duy có bài thơ ngắn "Biết là chả có Phật đâu/ Vẫn lòng thanh
bạch lại sau lễ chùa/ Người về khăn áo gió đưa/ Phất phơ hồn vía ngày
xưa vẫn còn…" và một bài báo ngắn "Dưới trần bến Đục bến Trong/ Trên
trời Hương Tích, Hinh Bồng trắng mây/ Cô em cầu cạnh gì đây? Cầu cho giá
gạo hằng ngày đừng lên". Chính nhờ phô diễn ngón nghề báo - thơ lẫn
lộn, Nguyễn Duy rất ít câu thơ cấp tỉnh, chỉ có những câu thơ cấp xã
chen dọc chen ngang với những câu thơ cấp trung ương! Hơn nữa, Nguyễn
Duy có thói quen dùng văn phong hài kịch, nên nhiều câu thơ dở được che
đi, mà nhiều câu thơ hay như "Ta cài cúc áo cho em/ Run tay gói lại một
miền cỏ lau" cũng bị che đi!
Suốt hành trình thơ, Nguyễn Duy luôn
chứng minh bản lĩnh một thi sĩ lợi khẩu. Lẽ thường, khi chạm vào trắc ẩn
nhân tình thế thái, phải nhìn thật gần mới thấy trái tim nhà thơ run
rẩy. Còn với Nguyễn Duy, từ xa đã nghe réo rắt những tiếng kêu cảm thán
tội nghiệp quá, thê thảm thay. Như ba vạt đồi nhú lên khỏi vùng thơ xôn
xao đàm thoại của Nguyễn Duy là ba bài thơ dàiĐánh thức tiềm lực, Nhìn từ xa… Tổ quốc và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Bài thơ Đánh thức tiềm lực nhờ
sự bảo đảm "Tiễn đưa anh Sáu Dân đi làm kinh tế" nên lời lẽ mạnh mẽ và
dõng dạc: “Cần lưu ý/ Có cái miệng làm chức năng cái bẫy/ Sau nụ cười là
lởm chởm răng cưa/ Có cái môi mỏng hơn lá mía/ Hôn má bên này bật máu
má bên kia/ Có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa/ Khái niệm bắn ra không
biết lối thu về".
Bài thơ Nhìn từ xa… Tổ quốc có lẽ do
không biết ghi tặng ai nên khí độ mềm mỏng hơn một chút: "Xứ sở thật
thà/ Sao thật lắm thứ điếm/ Điếm biệt thự - điếm chợ- điếm vườn/ Điếm
cấp thấp bán trôn nuôi miệng/ Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn/ Vật giá
tăng/ Vì hạ giá linh hồn”. Vừa hé lộ tinh thần bảo vệ môi
trường vừa khôn khéo phê phán những điều càng xa dạ dày càng tốt, Nguyễn
Duy ứng biến mau lẹ chuyển mạch cảm xúc sang Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ một
cách an toàn: "Có người thách ta đánh nhau/ Ta bảo ta yếu rồi ta lại
không có võ/ Có đứa thách ta chửi nhau/ Ta bảo ta vừa bị mất trộm cả sọt
từ ngữ/ Có đứa thách ta nhổ vào mặt nó/ Ta bảo hết đờm rồi/ Ta chúi mũi
hà hơi lên trang bản thảo/ Hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở". Thật ra, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ có
một cái tứ đáng đồng tiền bát gạo, nhưng dường như lộc thơ trời cho
Nguyễn Duy đã cạn, chỉ còn câu nọ giằng co câu kia trong sự lan man vô
định.
Giá trị thơ Nguyễn Duy giữa văn bản và trình diễn có một
khoảng cách nhất định. Lối dùng chữ lắt léo và cá tính của Nguyễn Duy dễ
làm sung sướng phát điên phát rồ cho những ai không đủ kiên trì đối
diện với thăm thẳm tâm trạng con người. Thơ Nguyễn Duy không có văn bản
ngoài văn bản. Mỗi câu thơ hoàn thành sứ mệnh kiêu hãnh ngay dấu chấm,
làm cho sức liên tưởng trong thơ Nguyễn Duy không mấy sâu rộng. Những
tiết điệu uyển chuyển "Ngấp nga ngấp ngoảng kêu ma, hóa ra ta gặp bóng
ta trên tường" hay "Phàm trần bớt chút lung linh, các em bớt xỉnh xình
xinh mấy phần" giống như một thứ quyền thuật. Cũng xuống tấn, cũng vung
tay, cũng tung cẳng, cũng ưỡn ngực, cũng lắc mông… thật đẹp mắt khi tham
gia màn đồng diễn ngoạn mục. Còn võ thuật đích thực cuộc song đấu giữa
người viết và người đọc, có khi 10 năm thấy cái nhón chân còn kinh hoàng
cú đá vô ảnh vô chiêu của bậc đại tôn sư.
Đọc thơ
Nguyễn Duy không khó khăn gì để hình dung, Nguyễn Duy cầm một cây tre
quậy vào cái ao nhà mình, kẻ nông cạn thảng thốt sắp có trận "thương hải
biến vi tang điền" [1],
kẻ bình thường náo nức gió to lồng lộng quê hương ta, còn kẻ tinh tế
bồi hồi mùi bùn đất hăng hăng. Bằng cách ấy, Nguyễn Duy tạo được miền
thơ riêng. Và ít nhất, tổng kết đời thơ, Nguyễn Duy vẫn còn chút băn
khoăn gửi thế hệ sau: "Tiềm lực còn ngủ yên, trong quả tim mắc bệnh đập
cầm chừng/ Tiềm lực còn ngủ yên, trong bộ óc mang khối u tự mãn/ Tiềm
lực còn ngủ yên, trong con mắt lờ đờ đục thủy tinh thể/ Tiềm lực còn ngủ
yên, trong lỗ tai u chai màng nhĩ/ Tiềm lực còn ngủ yên, trong ống mũi
khò khè không nhận biết mùi thơm/ Tiềm lực còn ngủ yên, trong lớp da
biếng lười cảm giác", mà khi nào độc giả cảm thấy đây là những câu thơ
vớ vẩn thì lúc đó đất nước Việt Nam đã sánh ngang với những cường quốc
khắp năm châu rồi.
Chú thích: Tiêu đề bài viết lấy tứ từ câu thơ Nguyễn Duy "Lấp lánh trang đời mỗi dày mỗi kịch".
Về cái yếu của thơ Nguyễn Duy
- vuductan(vuductan54@gmail.com)
Tôi
thấy anh Nhơn viết bài này nói lên được cái điểm chưa đạt của thơ ND.
Thơ ND hay khi nó được tác giả trình diễn, công hưởng nhiều cảm xúc khác
nhau, trong đó có cả sự đón đợi của người nghe. Nhưng khi sang văn bản
thì những câu thơ không còn được lấp lánh như người ta tưởng nữa. Sự lặp
lại quá nhiều thủ thuật, cũng như quá nhiều từ lặp trong một bài , một
câu khiến người ta cảm thấy anh chỉ thuận miệng mà không đầu tư đến nơi,
đến chốn. Cảm tưởng này càng rõ khi đọc các bài tuyển của anh trong
tập. Mức độ lặp lại dày đặc. Khi đọc một bài thấy hay, nhưng khi đọc
nhiều bài thấy hơi ...ớn.
Dĩ nhiên, đấy là chỉ mới
nói về cái yếu. Còn cái mạnh trong thơ ND cũng có nhiều, nhưng người ta
cũng hay nói rồi, tôi không nhắc lại.
|


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét