BÍCH KHÊ VÀ CÁCH TÂN CÂU THƠ
Nguyễn Hữu Vĩnh
Khi
bàn đến thơ Bích Khê, Chế Lan Viên viết: “Nếu Nguyễn Bính là một đồng
bằng thân thuộc, thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ”. Điểm khác biệt đặc
trưng ấy là do phong cách của từng người. Phong cách được xem như là
thước đo tài năng người nghệ sĩ.
Đi
vào nghiên cứu phong cách thơ Bích Khê, chúng tôi đã lưu tâm đến các
vấn đề như: quá trình cách tân ngôn ngữ thơ, nhạc tính trong thơ, họa
tính trong thơ, ẩn dụ và tượng trưng trong thơ… Trong bài viết này,
chúng tôi chỉ trình bày sự cách tân câu thơ Bích Khê – một yếu tố trong
quá trình cách tân ngôn ngữ của thi nhân – để từ đó có cơ sở nhận diện
ra Bích Khê giữa bầu trời thi ca Việt Nam.
Bích Khê viết:
Rồng vẽ lối xưa toàn những sáo
Cua bò thơ mới chả nên câu
(Bán thơ)
Bích
Khê phê phán lối thơ cũ sáo rỗng, lối thơ mới ngoằn ngoèo. Phải chăng
câu thơ mới vẫn còn gượng gạo, không tạo ra một sức hấp dẫn đối với Bích
Khê. Và thi nhân đã chọn cho mình lối đi mới, lối đi đó làm thành phong
cách câu thơ Bích Khê.
Chúng
tôi hoàn toàn không cho rằng số chữ của câu thơ (cơ sở qui định thể
loại) là yếu tố tiên quyết về phong cách câu thơ Bích Khê. Thử đi vào
thống kê và so sánh các thể thơ của Bích Khê với các nhà thơ cùng thời,
song chúng tôi chẳng thu lại được một kết quả khả dĩ nào. Thực ra, Bích
Khê không bộc lộ phong cách của mình về thể loại. Với Bích Khê, nét đặc
trưng nhất của câu thơ là ở chỗ sự thống nhất kỳ lạ giữa cái biểu đạt và
cái được biểu đạt trong quá trình hình thành câu thơ.
Sau đây là những loại hình câu thơ đặc trưng của Bích Khê:
* Câu thơ tương hợp:
Là loại hình câu thơ hàm chứa nhiều phạm trù khác nhau của cuộc sống.
Loại hình câu thơ này là kết quả của quá trình ảnh hưởng thuyết tương
hợp
(correspondance) của chủ nghĩa tượng trưng Pháp. Trước hết là câu thơ thể hiện sự tương hợp giữa các giác quan.
Cây du dương lâu đài song sóng
Bích
Khê vừa thấy lại vừa nghe, thấy cây giống lâu đài song sóng, nghe cây
phát nhạc du dương. Vì vậy mà cái được biểu đạt của khái niệm “cây” có
khả năng đánh thức cùng một lúc thị giác và thính giác người đọc.
Trong bài “Tranh lõa thể”, Bích Khê viết:
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương.
Sự
tương hợp giữa các giác quan cũng chính là sự tương hợp giữa các đối
tượng của chúng. Do đó, mà âm thanh, màu sắc, hương thơm … có thể hòa
hợp trong một thực thể. Đối tượng phản ảnh của thơ ca được hiện lên
nhiều chiều, nhiều sắc thái, câu thơ lúc đó trở nên sống động và quá
trình tri giác nghệ thuật cũng trở nên phong phú và hấp dẫn. Thuyết
tương hợp mở ra một hướng nhìn nhận đa diện về sự vật, thi nhân dễ dàng
nắm bắt bản chất của đối tượng thẫm mỹ. Bởi lẽ, tổng số những trực quan
sinh động do ngũ quan đưa lại về một sự vật hiện tượng sẽ cho ra một
phán đoán chính xác hơn của một giác quan đem lại. Thuyết tương hợp
không chỉ là một cố gắng tâm linh mà còn là một thực tiễn lý luận khoa
học giúp con người khắc phục được sự đơn điệu và phiếm diện trong việc
khám phá mọi lĩnh vực đời sống.
Ở
một khía cạnh khác, Bích Khê sử dụng thuyết tương hợp để đi đến việc
thống nhất của các hoạt động nghệ thuật lại với nhau. Bích Khê chủ động
mở rộng biên độ của thơ, đưa cả âm nhạc, hội họa, kiến trúc, vũ điệu…
vào trong thơ, khiến thơ ông không chỉ là thơ mà còn là nhạc điệu, bức
tranh, lâu đài…; ngôn ngữ không chỉ là ngôn ngữ, mà còn là âm thanh, màu
sắc đường nét, hình khối v.v…
Âm nhạc: Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mát
Hội họa: Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở
Kiến trúc: Đời kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lòng đẹp. Hạt châu trong …
Ngôn
ngữ lúc này thôi là một phương tiện mà trở thành một cứu cánh của thơ,
làm cơ sở cho việc xây dựng tính liên ngành của các hoạt động nghệ
thuật. Phá vỡ những khu tự trị riêng của các ngành nghệ thuật vốn dĩ ăn
sâu vào nhận thức của nhiều người.
* Câu thơ tương đồng: là
loại hình câu thơ mà trong đó có nhiều yếu tố ngôn ngữ tương đồng với
nhau. Câu thơ tương đồng thường có nhiều tiết tấu mới lạ cho phép tầng
tầng, lớp lớp cảm xúc chồng chất lên nhau, giá trị biểu cảm của câu thơ
sẽ mạnh mẽ hơn và dễ gây ấn tượng hơn. Có rất nhiều kiểu tương đồng, bởi
lẽ trong ngôn ngữ có bao nhiêu yếu tố thì có bấy nhiêu cách tương đồng.
Câu thơ truyền thống Việt Nam thường thể hiện sự tương đồng về phụ âm
đầu, vần, từ… tạo thành những câu thơ điệp phụ âm đầu, điệp vần, điệp
từ…
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
(Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử)
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đến
Bích Khê, thi sĩ đã đi vào khai thác một ngạch riêng của mình. Đó là sự
tương đồng về âm thanh và tạo hẳn ra một lối thơ bình thanh đặc sắc.
Ô hay! buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông.
(Tỳ Bà)
Thực
sự lối thơ bình thanh cũng đã xuất hiện ở một vài thi sĩ cùng thời như:
Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh… Tuy nhiên, đó chỉ là cảm hứng ngẫu nhiên
chứ chưa phải là ý thức cách tân của các thi sĩ. Bích Khê là người chủ
động đến với thơ bình thanh và đạt được những thành công rực rỡ với
những bài: Hoàng hoa, Tỳ bà, Nghê thường v.v …
Bản
chất của lối thơ này đã phá vỡ âm luật thơ truyền thống, câu thơ bình
thanh tạo cho mình một thứ nhạc điệu mới có khả năng làm mê hoặc lòng
người. Điều này cũng không nằm ngoài quan niệm của thi phái tượng trưng,
xem “âm nhạc trước mọi sự”
(Verlaine); mỗi chữ là một nốt nhạc, bài thơ là một giai điệu chủ quan có thiên chức phát
khởi những ý niệm nguyên sơ, khải thị chân lý. “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa” (Valéry).
Đứng
trên một khía cạnh khác, câu thơ tương đồng Bích Khê còn thể hiện ở chỗ
tương đồng theo âm vận cặp đôi. Loại hình câu thơ này Paul Eluya (Nhà
thơ siêu thực Pháp) rất chú ý.
Trước hết, câu thơ tương đồng âm vận cặp đôi theo chiều dọc:
Un berceau dans les feuilles mortes du jour.
Un bouquet de pluie nue.
(Một cái nôi giữa những chiếc lá rụng
Một bó nước mưa trần trụi)
Bích
Khê sử dụng thao tác này rất linh hoạt, thậm chí ngay cả trong thể thơ
truyền thống mà vẫn không phá vỡ đặc trưng thể loại.
Bụi hồng cách mấy hoa đào
Bụi hồng cách mấy hoa đào năm xưa
Hay: Sông Ngân cách mấy sông Tương
Sông Ngân cách với sông Tương mấy trời.
Thứ hai là câu thơ tương đồng âm vận cặp đôi theo chiều ngang. Paul Eluya viết:
Source des sources
Miroir des miroirs
(Ngọn nguồn của những ngọn nguồn
Tấm gương của những tấm gương)
Trong thơ Bích Khê có vô số những câu thơ như vậy.
Ôi nàng tiên nương!hớp nhạc đầy hương
Khung trắng trời mây trắng lạ thường
Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc lan man…
Tình tang tôi nghe như tình lang…
Để
tránh sự nhầm lẫn trong cách gọi tên, cần phải phân biệt câu thơ tương
đồng âm vận với câu thơ điệp từ, điệp ngữ… Thực ra đây là hai cấp độ
tương đồng của những chữ, những từ trong một câu thơ. Một bên là tương
đồng bộ phận, còn một bên là tương đồng toàn bộ. Câu thơ điệp từ, điệp
ngữ là đỉnh cao của sự tương đồng âm vận.
* Câu thơ bắc cầu: là loại hình câu thơ trong đó tín hiệu thứ nhất xuất hiện thì cần
thiết
phải xuất hiện tín hiệu thứ hai, và sau khi tín hiệu thứ hai xuất hiện
thì tự nhiên nó réo gọi tín hiệu thứ ba xuất hiện và cứ thế xuất hiện
tín hiệu thứ tư, thứ năm… Và giữa các tín hiệu đó luôn luôn chịu sự chi
phối bởi một mối quan hệ nhất định.
Lờ mờ đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi! Vàng ròng đây
Kề môi say ân ái
(Ngũ Hành Sơn)
Tín
hiệu “chén trăng” xuất hiện, thoạt nhiên nó réo gọi các động tác liên
quan đến cái chén cụ thể. Mối quan hệ vốn có giữa cái chén và các hoạt
động ăn uống trở thành mối quan hệ tạm thời cho “chén trăng” và “kề môi
ân ái”. Nhờ mối quan hệ đó mà một khi “chén trăng” xuất hiện thì buộc
động tác “kề môi say ân ái” phải xuất hiện tiếp theo sau. Đồng thời cũng
nhờ thế mà tư duy nhà thơ có khả năng nhảy vọt từ địa hạt này sang địa
hạt khác. Trường liên tưởng dựa trên mối quan hệ tạm thời đó là chiếc
cầu nối giữa các câu thơ, các phạm trù khác nhau.
Câu
thơ bắc cầu thể hiện tính phong phú, đa dạng của trường liên tưởng và
tư duy thơ Bích Khê. Thi nhân đã làm thành phong cách riêng với hàng
loạt câu thơ bắt cầu, như:
- Nâng lên núm vú đồi
Sửa trăng nhi nhỉ giọt.
- Không gian tơ, không gian tơ gợn sóng
Ngọc Kiều ơi, hồn đến bến khơi xa…
Câu
thơ bắc cầu, trước hết tạo ra những ý thơ mới lạ, gây được khoái cảm
thẫm mĩ trong lòng người đọc. Hơn thế nữa, nhờ câu thơ bắc cầu, Bích Khê
đã xây dựng thành công những biểu tượng sinh động, hấp dẫn. Bức tranh
về cuộc sống được thi nhân thể hiện vừa cụ thể, vừa khái quát. Đây cũng
là thủ pháp nghệ thuật mà những người theo chủ nghĩa tượng trưng khai
thác triệt để.
* Câu thơ xuống dòng: là
loại hình câu thơ, trong đó các qui tắc ngữ pháp bị phá vỡ theo ý chủ
quan của tác giả. Câu thơ xuống dòng có chức năng làm cắt đứt mạch thơ
và chuyển câu thơ vào trường tư duy khác.
Trong thơ Bích Khê, câu thơ xuống dòng xuất hiện với tần số lớn, làm thành nét độc đáo trong phong cách câu thơ của tác giả:
Buồn và xanh trời (tôi trôi tới bờ)
Êm biếc - khóc với thu; lời úa ngô
Vàng - khi cách biệt
- Thoảng tiếng gáy của cu
Cườm. Hiu hiu vàng đượm
- Như mặt trời lọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn – Đàn môi, chim báu tớt…
Những
chữ qua hàng như những cánh cửa khép mở hai luồng tư duy, hai trường
liên tưởng – Nếu “Thoảng tiếng gáy của cu” chưa có gì lạ, thì thao tác
chiết tự, qua hàng tạo thành “Cườm” đứng ở đầu câu làm cho câu thơ có
cái gì đó long lanh và tĩnh tại v.v…
Bằng
những thủ pháp nghệ thuật riêng, Bích Khê đã xây dựng hàng loạt kiểu
câu thơ đặc sắc, như: Câu thơ tương hợp, câu thơ tương đồng, câu thơ bắc
cầu, câu thơ xuống dòng v.v… Suy cho cùng, mục đích hướng đến của thi
nhân là mong muốn thể hiện đầy đủ và toàn vẹn hơn các lĩnh vực của đời
sống. Đó cũng là khát vọng muôn đời của người nghệ sĩ muốn vươn đến bến
bờ Chân – Thiện – Mỹ.
“
Thơ Bích Khê đọc đôi ba lần cũng như chưa đọc”. Bởi lẽ, đó là một thế
giới huyền diệu vừa xa lạ vừa kỳ bí. Khảo sát câu thơ Bích Khê, giúp
chúng ta tìm ra chiếc gậy thần chỉ đá hóa vàng, mở được cánh cửa bí mật
của “Viện cổ Đông phương”, và có thể cùng với thi nhân bay vào thế giới
huyền diệu đó.
Huế, 6 – 1994
N.H.V
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét