Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Nhà văn Nam Cao



Nam Cao (29 tháng 10, 1915 - 28 tháng 11, 1951) là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Sáng tác của Ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (người Công giáo), sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917.[1] Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân nay là tỉnh Hà Nam - xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.


Nam cao(Phải) ở Chiến khu Việt Bắc
Xuất thân từ một gia đình bậc trung Công giáo, cha Nam Cao là ông Trần Hữu Huệ, thợ mộc, làm thuốc, mẹ là bà Trần Thị Minh làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Nam Cao học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.



Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.

Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt
Đến với con đường văn học

Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. Phát xít Nhật vào Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học.

Rời Hà Nội, Nam Cao về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn. Tháng 4 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức này.



Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương. Ông cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên tạp chí Tiên Phong.

Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn Cười ở NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.

Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia chiến dịch biên giới.

Tháng 5 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.
Qua đời

Nam Cao hy sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 - 10 âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình) do bị đối phương phục kích.

Năm 1956, tiểu thuyết Sống mòn của ông được xuất bản lần đầu 

Đầu năm 1996, một chương trình mang tên "Tìm lại Nam Cao" được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESSCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân dân... Điều đặc biệt là trong đó có sự góp mặt của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) đã đứng ra mời họ tham gia chương trình "Tìm lại Nam Cao". Kết quả sau gần nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mồ vô danh, cuối cùng Nam Cao đã về yên nghỉ vĩnh hằng nơi quê nhà (xã Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam) 

Một Nhà tưởng niệm Nam Cao cũng đã được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam, để tưởng niệm nhà văn
-----------------------
HIẾU NGHĨA


Vì sao có bút danh NamCao?
Thật ra, làng Vũ Đại không phải là một địa danh có thật. Ngôi làng bạn đã đọc trong tác phẩm Chí Phèo có tên là làng Đại Hoàng cơ! Đó cũng chính là ngôi làng mà nhà văn Nam Cao (tên thật là Trần Hữu Trí) đã lớn lên, chứng kiến bao cảnh thối nát, đưa đẩy số phận con người đến cùng cực. Sau Cách Mạng Tháng Tám thành công, làng được đổi tên thành thôn Nhân Hậu (xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) cho đến ngày nay.
Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) đã bước sang tuổi tám mươi nhưng vẫn còn minh mẫn lắm. Ông kể gia đình Nam Cao có bảy anh em, bốn trai và ba gái.
Nam Cao là con trai cả, học rất giỏi và có uy trong dòng họ. Một tay ông bảo bọc, dạy dỗ các em nên ai cũng yêu thương và nể trọng. Nhiều người lầm tưởng nhà văn phải “dữ dội” lắm, như cách ông xây dựng nhân vật trong các tác phẩm, nhưng thật ra Nam Cao lại rất hiền, ít nói, gặp người lạ là thẹn thùng đỏ mặt...
Ông Đạt cho biết gần như tất cả các nhân vật trong các tác phẩm của Nam Cao từ Chí Phèo, Lão Hạc, Sống Mòn... đều được lấy chi tiết từ những nhân vật có thật ở làng. Họ chính là những người hàng xóm, lão địa chủ, bạn bè thậm chí cả... bà con. Riêng bút danh Nam Cao, nhà văn có lần giải thích rằng đó là chữ đầu tên huyện (ngày đó huyện Lý Nhân có tên là Nam Sang) ghép với tổng (đơn vị hành chánh giữa huyện và xã Đại Hoàng có tên tổng Cao Đà) để luôn nhớ về quê hương. Mặt khác, cái tên Nam Cao còn mang nghĩa người con nước Namnghĩa khí cao cả.
Chí Phèo - Thị Nở là ai?
Ông Đạt vẫn còn nhớ rõ nhân vật “Chí Phèo” ngoài đời tên thật là Chí. Đó là một gã cao to, râu ria bặm trợn tính tình thô lỗ cục cằn. Ai thuê gì hắn làm nấy, lắm lúc kiêm luôn “nghề” đòi nợ thuê cho nhà giàu để xin tiền uống rượu. Ở làng hồi đó có ông Trương Pháo làm nghề mổ lợn thường hay bị Chí đến mè nheo xin lòng lợn để làm mồi nhậu. Mà phải công nhận rằng tay Chí làm món lòng lợn tiết canh khá ngon nên mọi người gán luôn cho hắn cái tên rất hình tượng “Chí Phèo”.
Ngoài đời, Chí Phèo không “ghê rợn” với ngón nghề rạch mặt ăn vạ máu me đầm đìa như mô tả của Nam Cao. Mỗi khi say xỉn, hắn “chân nam đá chân chiêu” vào điếm canh ngủ khoèo. Hắn cũng chưa từng rạch bụng hay đâm chết người phải chịu cảnh tù tội. Sau này, Chí Phèo đi đâu, chết như thế nào người làng không được rõ lắm. Nhưng mãi đến bây giờ, mỗi khi mang tên “Chí Phèo” ra hù dọa, bọn con nít ở đây cứ khóc ré lên vì sợ.
Nói về nhân vật Thị Nở, ông Đạt cười khì: Bà ấy tên thật là Trần Thị Nở, con của một người làm cối xay tên Phó Kính ở thôn bên cạnh. Một điều ít ai biết là Thị Nở chính là dì họ của Nam Cao. Thị Nở không xấu xí đến độ “ma chê quỉ hờn” như mô tả của nhà văn, nhưng cũng rất là... không đẹp, tính tình “mưa nắng thất thường”, lại còn có tật xấu là bạ đâu ngủ đó.
Ông Đạt kể có thời Thị Nở làm thuê cho bà ngoại của ông, nhưng thị rất “hâm”, làm đâu hư đó và cũng khá mồm miệng. Có lần bà ngoại Nam Cao chê cơm Thị Nở nấu dở, thị cãi “tại chưa ngon chứ không phải... dở”.
Các bô lão trong làng kể khi tác phẩm Chí Phèo ra đời, ai cũng dễ dàng nhận ra nhân vật người đàn bà trùng tên ấy là ai, nhưng chưa hề nghe Thị Nở càu nhàu gì. Mỗi lần có ai chọc, thị chỉ cười khì... Thị dở hơi nhưng được cái lành lắm!
Sự thật chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở
Khi hỏi về mối tình “vượt thời gian” của hai nhân vật Chí Phèo và Thị Nở, ông Đạt khẳng định: “Riêng chuyện yêu đương của hai người là không có, thậm chí cả hai cũng chẳng có mối quan hệ gì, dù đôi lúc họ vẫn chạm mặt nhau trên đường làng”.
Riêng Chí Phèo, dù thỉnh thoảng có làm thuê cho nhà Bá Kiến, nhưng anh ta và bà Ba không hề “ọ ẹ” gì với nhau. Cũng chưa từng nghe nói Chí Phèo có vợ con hay qua lại với người phụ nữ nào ở làng, dù đôi lúc say xỉn anh ta cũng hay trêu ghẹo các chị đi ngang điếm canh. Còn Thị Nở xấu xí dở hơi như thế, nhưng rất chuyên chính. Thị vẫn lấy chồng, sinh con đàng hoàng. Chồng Thị Nở cũng là người làm thuê từ nơi khác đến. Sau này, cả nhà Thị Nở bỏ vào Namsinh sống rồi bặt tin từ đó.
Nhắc đến câu chuyện tình bi hài qua ngòi bút tài hoa của anh trai, ông Đạt trầm ngâm: “Có lần nghe anh nói chỉ muốn mượn hình ảnh chuyện tình éo le trắc trở ấy để mở cho Chí Phèo một con đường làm lại cuộc đời, nhưng giữa xã hội tha hóa và thối nát ấy làm sao Chí thoát ra được...”.
***
Chú Trần Đức Huy (Bí thư Đảng ủy xã Hòa Hậu) kể khoảng 1998, lúc tìm mộ Nam Cao để đưa về làng an nghỉ, mọi người mới phát hiện có sự trùng hợp kì lạ là địa bàn hoạt động cách mạng rồi sau đó hi sinh (30/11/1951) của nhà văn cũng mang tên Vũ Đại nhưng ở tận tỉnh Ninh Bình.
Chuyện kể rằng khi cùng nhóm đồng chí bị bắt, quân địch tra hỏi dã man tìm ra bằng được Nam Cao để “xử tội”. Vì yêu quý nhà văn, ai cũng nhận mình là Nam Cao để chịu tội thay, nên cuối cùng địch quyết định xử bắn tất cả...
***
Chí Phèo được nhà văn Nam Cao viết vào 2/1941, ban đầu có tên Cái lò gạch cũ. Sau này nhà xuất bản Đời mới - Hà Nội tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Khi in lại vào năm 1946, nhà văn đổi lại thành "Chí Phèo".
(Báo Mực Tím)
-----------

Có một sự trùng hợp khá thú vị là ngôi mộ Nam Cao lại nằm trên chính mảnh đất lão Hạc (truyện Lão Hạc - Nam Cao) từng sống.
Khuất sau một vườn chuối ngự xanh mướt, ngôi nhà Bá Kiến có hơn 200 năm tuổi, từng được coi là nỗi ám ảnh một thời của dân "làng Vũ Đại", vẫn nằm lặng lẽ và u tịch sau biết bao giai đoạn lịch sử thăng trầm.
Cách đó không xa là khu nhà tưởng niệm Nam Cao - nơi nhà văn vừa được đưa về yên nghỉ sau hơn 50 năm lưu lạc - luôn rộn vang tiếng học trò và cả du khách mỗi ngày đến đây thắp hương, thăm viếng...
Cái lò gạch cũ này sẽ là điểm tham quan của du khách.
Ngôi nhà Bá Kiến
Trong ngôi nhà chứng nhân lịch sử
Thật khó mà diễn tả hết cảm giác của tôi khi mở cửa bước chân vào ngôi nhà của lão Bá Kiến. Đó là một ngôi nhà ba gian, hai chái, lâu ngày không được bàn tay con người chăm sóc - đã bắt đầu ẩm mốc và bám bụi, nhưng những nét chạm khắc tinh vi thì vẫn còn đó. Mười sáu cột gỗ lim kê đá tảng, mái ngói âm dương dù xuống cấp nhưng vẫn nguyên vẹn. Bên ngoài, mảnh sân lát gạch tàu phủ rêu phong, giếng nước nằm hiền hòa bên gốc cây cổ thụ già nua. Không được giới thiệu trước, có lẽ cũng khó hình dung đây là ngôi nhà của một nhân vật cường hào ác bá khét tiếng một thời...
Ông Trần Hữu Đạt - em trai của nhà văn Nam Cao kể, Bá Kiến tên thật là Bá Bính, là một chánh tổng giàu có. Ông ta có tài ăn nói mềm mỏng, khôn ngoan nhưng cực kì thâm hiểm. Biết được ngôi nhà cổ xinh đẹp này là của một người đàn ông tên Cát hay nát rượu, Bá Bính giả vờ giúp đỡ bằng cách cho hắn ta vay tiền, đến khi con nợ không còn khả năng chi trả thì Bá Bính trở mặt đòi hắn phải kí giấy cấn nhà trừ nợ. Bá Bính trở thành chủ nhân "hợp pháp" của ngôi nhà bằng chính thủ đoạn thâm hiểm của mình.
Nghe kể lại, Bá Bính có đến năm người vợ, nhưng chỉ có bà Ba trắng trẻo phốp pháp, tính tình cũng khá lẳng lơ là ở tại đây, còn những người vợ khác đều có nhà riêng cả. Sau này, bà Ba treo cổ tự tử chết vì một lí do gì đó chẳng rõ. Ông Đạt còn cho biết, Bá Bính tuy có thâm hiểm thật, nhưng sau này một số người con của ông ta cũng sớm giác ngộ cách mạng và có những đóng góp đáng kể cho quê hương. Thật ra, nhân vật Bá Kiến được Nam Cao xây dựng dựa trên sáu bảy nhân vật cường hào ác bá tại địa phương khác nữa như Lí Cường, Đỗ Tàu... Chuyện kể rằng sau khi tác phẩm ra đời, có lần Bá Bính gặp bố Nam Cao và nói lẫy: "Ông thật là có phúc sinh được thằng con có tài... chửi cả làng". Nói thế nhưng Bá Bính rất nể Nam Cao, nhất là sau khi nhà văn lên làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã.
Cách đây khoảng ba năm, một đại gia tại Hà Nội đến mua lại ngôi nhà cổ này với giá hơn tỉ bạc, nhưng bà Trần Thị Sâm - chủ nhân cuối cùng của ngôi nhà "lừng lẫy" này vẫn quyết định không bán mà nhượng lại cho địa phương với giá chỉ bằng phân nửa thị trường, với mong muốn giữ lại một chứng nhân lịch sử cuối cùng gắn liền với văn chương của người con quê hương Hòa Hậu.
"Cùng với nhà tưởng niệm Nam Cao, ngôi nhà này sẽ là nơi để học sinh, du khách đến tìm hiểu tác phẩm kĩ hơn, để làng Vũ Đại đời và thật hơn". Anh Trần Đức Thảnh, bí thư Đoàn xã, người vừa được giao chìa khóa để bắt tay vào chăm sóc ngôi nhà này nói đầy vẻ tự hào.
Chăm sóc nhà tưởng niệm là niềm vui của các bạn đoàn viên.
Sẽ có "làng hiện thực Vũ Đại"?
Bước đến nhà tưởng niệm Nam Cao, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì quang cảnh nơi đây khá rộng và đẹp. Ngôi nhà được khánh thành vào năm 2004, đúng ngày giỗ nhà văn Nam Cao (30/11). Mộ nhà văn nằm bình yên giữa vườn chuối ngự xanh mướt trĩu quả. Vào những ngày cuối tuần, học sinh thường rủ nhau đến đây quét dọn chăm chút từng khóm cây, chậu kiểng. Anh Thảnh cho biết: "Chẳng cần ai phân công cả, các bạn trẻ mỗi khi rảnh rỗi đều rủ nhau đến dọn vệ sinh như một niềm vui và trách nhiệm vậy đó".
HIẾU NGHĨA

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét