Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Lưu Trọng Lư - Trang 3


Viết bởi duongloan   
Thứ ba, 06 Tháng 3 2012 07:40
Thơ như vậy, và ý tình như vậy mà trong làng văn tự cũng còn có người chê bai được, thực đáng buồn quá lắm. Cho mới biết ở đời này bao giờ cũng còn có nhiều người chỉ biết có lòng đố kỵ mà thôi chứ không cần gì nghệ thuật hay tư tưởng!”…
Trong phần mở đầu công trình đại thành Thi nhân Việt Nam, hai nhà phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân trước hết xác định vai trò Lưu Trọng Lư trên tư cách “Người hưởng ứng thứ nhất” phong trào Thơ mới: “Lần lượt những bài thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên mặt báo. Người hưởng ứng nhất là ông Lưu Trọng Lư. Sau khi đăng bài của ông Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân văn nhận được một bức thư hoan nghênh ký cô Liên Hương (Faifo), một bài thơ mới “Trên đường đời” ký Lưu Trọng Lư và một bài nữa “Vắng khách thơ” ký Thanh Tâm. Ký nhiều tên cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người. “Tình già”, “Trên đường đời”, và “Vắng khách thơ” là ba bài mang tên thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Kế đó, Phụ nữ tân văn còn đăng thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh (tức Nguyễn Thị Kiêm), của Hồ Văn Hảo và nhiều người nữa”...
Hai nhà phê bình tiếp tục nhấn mạnh chất thơ và “dòng thơ” Lưu Trọng Lư, xác định những nét riêng đặc sắc của phong cách thơ đặt trong tương quan một thời đại thi ca:
“Tôi muốn xếp riêng vào một dòng những nhà thơ tuy có chịu ảnh hưởng phương Tây nhưng rất ít và cũng không chịu ảnh hưởng thơ Đường. Thơ của họ có tính cách Việt Nam rõ rệt.
Đứng đầu dòng này là Lưu Trọng Lư. Điều ấy không có gì lạ. Lưu Trọng Lư nhác đọc sách nhất trong các thi sĩ đương thời. Họ Lưu ưa sống trong cuộc đời nhiều hơn trong sách vở. Sách Tàu hay sách Tây cũng vậy. Thi nhân chỉ nhớ mang máng một ít Kiều, một ít Chinh phụ ngâm, năm bảy câu trong bản dịch Tỳ bà hành cùng vài bài cổ phong từ khúc của Tản Đà. Trong những thể thơ ấy, Lưu Trọng Lư đã gửi rất dễ dàng nỗi đau buồn riêng của một người thanh niên Việt Nam thời mới…
Các nhà thơ về dòng này thường có lời thơ bình dị. Họ ít ảnh hưởng lẫn nhau và cũng ít có ảnh hưởng đối với thi ca cận đại. Thi phẩm của họ có tính cách vĩnh viễn nhiều hơn tính cách một thời. Vả họ nương vào thanh thế phương Tây cũng ít. Lưu Trọng Lư có thơ đăng báo trước Thế Lữ. Nhưng đến khi Thế Lữ ra đời, người ta tưởng không có Lưu Trọng Lư nữa. Gần đây trong hàng thanh niên hình như có người lại sực nhớ tới tác giả Tiếng thu. Phải chăng thi ca Việt Nam đã đi đến chỗ xoay chiều?”…
Rồi sau khi cảm nhận, phân tích, lý giải, biện luận về mối quan hệ giữa đời và thơ, thế giới tưởng tượng, hình ảnh và âm điệu câu thơ Lưu Trọng Lư, hai ông đi đến kết luận: “Sao lại có người có thể đọc những câu thơ như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thương ấy thường quá. Vâng, thường, thường lắm, thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của loài người. Tôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm, kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ tôi cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cũng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”…
Trong tâm thế hướng đến phác họa toàn cảnh bức tranh văn học nửa đầu thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (Quyển III, 1943) đã nhấn mạnh tính phổ quát của những cảm thu, tình thu, cảnh thu, sắc thu, chiều thu, ngày thu và tâm tưởng bốn mùa thu:
"Ấy, đọc Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tôi vừa tưởng nhớ đến tiếng thu, cái tiếng thu làm cho cỏ cây rầu rĩ úa vàng, tôi lại vừa cảm thấy cái tiếng thu cứ ít lâu lại cứ văng vẳng bên mình, cái tiếng mà ta không thể căn cứ vào thời gian và không gian mà cho tinh chất..."
…"Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư thật không khác gì những tiếng đàn thu não nùng của Verlaine trong Bài hát thu về. Thật nó nhẹ nhàng từ âm điệu đến ý tưởng, nó cám dỗ ta bằng sự mơn man, rồi thấm dần vào cõi lòng ta, làm cho ta phải ngây ngất về cái hiu quạnh ở bên sự sống của loài người. Người cô phụ, con nai vàng, bất cứ là người hay vật, đã góp phần vào cuộc sống thì đều phải rạo rực, ngơ ngác về cái tiếng thổn thức của mùa thu dưới ánh trăng mờ.
Mà ngọn thu phong ấy còn đưa về cho ta những gì nữa? Nó đưa về làn mây bạc với mọi điều mơ mộng của tuổi xanh, làm cho người thanh niên, dẫu có cái buồn vơ vẩn, nhưng vẫn chứa chan trong lòng biết bao tình yêu đằm thắm: Mây trắng bay đầy trước ngõ tre/ Buồn xưa theo với gió thu về (Mây trắng)…
Tiếng thu đã đến khắp muôn vật muôn loài, thì trong những lúc u sầu, tiếng gì buồn dịu chả có thể làm cho ta kể là tiếng thu? Cho nên “tiếng thu” có thể là tiếng giọt mưa đông tí tách, giọt mưa hạ rào rào, hay tiếng chuông phảng phất trong bầu trời xuân.
“Người buồn cảnh có vui đâu…”. Lúc nào trong tâm hồn ta còn vẳng tiếng thu, thì lúc ấy ta còn thấy cái sầu man mác nó tràn lan đến cảnh vật bên mình; rồi bất kỳ một âm thanh gì nhè nhẹ chìm chìm, có thể gợi nỗi buồn trong lòng ta, đều làm cho ta vấn vương thắc mắc…
…Nhưng Lưu Trọng Lư là một người buồn, nên thơ ông, khi đọc lên, buồn vô hạn. Ngay như ngày nắng mới là một ngày vui cho tất cả mọi người, mà riêng ông lại mượn ngày nắng mới để thở than về một thời ký vãng đau thương: Mỗi lần nắng mới hắt bên song/ Xao xác gà trưa gáy não nùng”...
Từ đây Vũ Ngọc Phan đi sâu phân tích những đặc điểm thuộc về thi tứ, cảm xúc, âm điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật các bài thơ, câu thơ:
“Cái hay trong thơ của Lưu Trọng Lư ở sự thành thực, tấm lòng sầu não của ông thế nào, sự ước mong của ông thế nào và có thể thổ lộ ra được chừng nào, ông thổ lộ ra chừng ấy. Ông không hề gò từng chữ, bó từng câu để cho lạc mất ý mình; thơ ông nếu lời tinh tế thì tự nó tinh tế, chứ thật ông không bao giờ gọt dũa. Những chữ lao đao, la đà, tần ngần trên này là những chữ rất tự nhiên, người nào say đều biết nói ra cả, không riêng gì ông. Cái hay ở như toàn bài, ở như cái ý say nó bao trùm hết cả bài thơ, không ở riêng một chữ nào.
Ông không hề nắn nót lời thơ, nên trong những bài trường thiên, thường có rất nhiều chữ trùng, ý điệp. Trong một bài (Bài Giang hồ trong tập Tiếng thu) - đã đành rằng dài - mà có tới bốn câu đều có chữ "lạnh lùng":
- Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh lùng;
- Gió đùa trăng lên bãi lạnh lùng;
- Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng;
- Lạnh lùng thay gió thổi đêm đông!
Vẫn biết những câu ấy ở cách xa nhau mươi dòng, nhưng nếu đứng vào phương diện nghệ thuật mà xét thì cũng khí "lạnh lùng" nhiều quá. Rồi lại có những câu na ná một điệu như những câu trong Tỳ bà hành:
Khoan đừng tơ tưởng vợ con chuyện nhà;
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người;
Đợi trầm bay rộn rã lời ca;
Nghe xong ta ngắm trời xa; vân vân…
Một bài như thế, nhưng lại có những câu tuyệt diệu như sau này:
Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng,
Xót xa thay cái giống giang hồ!
Ngón đàn thêm một tiếng tơ,
Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét