| Viết bởi duongloan |
| Thứ ba, 06 Tháng 3 2012 07:40 |
Trần Thanh Mại cũng thẳng thắn chỉ ra những câu chữ, hình ảnh, thi tứ mà ông cho là trùng lặp (cho dù hậu thế có thể cảm nhận khác hơn):
“Lưu Trọng Lư còn có cái tật xấu nữa là ít săn sóc đến những câu của mình đã viết ra. Như trong bài Giang hồ mà cái năng lực dẫn khởi, não nùng không còn chối cãi được nữa, chàng luôn luôn vấp phải những ý tứ và những chữ lặp đi lặp lại nhiều lần. Vừa mới ta thấy:
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Thì cách đấy dăm hàng ta lại thấy:
Con thuyền còn buộc trăng buông lạnh lùng.
Rồi tiếp liền theo ngay:
Chừ đây trăng nước não nùng,
Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Để cách đấy ít câu ta lại thấy:
Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng!”…
Ngay sau đó, tác giả Việt Châu trong bài Đọc thơ tình cảm (thơ Lưu Trọng Lư) và bàn với các ông Lê Tràng Kiều, Trần Thanh Mại in trên báo Mai ở Sài Gòn (số 85, ra ngày 12-5-1939, tr.9) đã nêu rõ quan niệm riêng của mình về lối “thơ tình cảm” và đề cao thơ tình cảm của Lưu Trọng Lư:
“Có người sẽ hỏi: Thơ nào chẳng là tình cảm?
Thơ tình cảm đây là sánh với những trường thơ lạ khác mà mang danh. Đã chẳng có những trường thơ lạ… rất lạ đó sao?
Viết bài này tôi chủ ý nói đến một thứ thơ thuần tình cảm mà thôi - thứ thơ mà ông Lưu Trọng Lư đứng đầu trong phái… Vì thế, bài này cũng có thể đeo cái nhan đề là Đọc thơ Lưu Trọng Lư.
Đọc và bàn Lưu Trọng Lư, tôi muốn hoàn toàn lấy một hồn thơ để hiểu một hồn thơ bạn. Tôi không muốn dẫn một thành ngữ nào, một châm ngôn của triết nhân nào; tôi cần phải bình dị"...
Sau khi xác định vai trò của ý thơ, lời thơ và chất nhạc trong lối thơ tình cảm, Việt Châu chuyển sang phê phán kiểu thơ minh họa, vụ lợi, chỉ biết nặn chữ nặn nghĩa mà thiếu chất trữ tình:
"Tóm lại, không văn hoa chi hết, ta phải nói thẳng: 1- Thi nhân có cảm tình như thường nhân nhưng giàu hơn. 2- Thi nhân có những ý đẹp lời êm. 3- Thi nhân vẫn là người, mà lại người nhiều hơn chúng ta nữa. Thế thôi.
Vì đó, ta thấy say sưa thấm thía khi đọc thơ tình cảm. Ta thấy ta được có người nói ra dùm những cõi lòng của ta một cách đầy đủ, thỏa thích.
Vậy chỉ có thơ tình cảm mới là thơ "chính danh" mà thôi.
Tại sao người ta còn cầu kỳ và lập dị để viết những lời thơ mắc mớ không hợp với lòng người? Sự thực, những loại thơ khác kia cũng có cái hay riêng của nó, nhưng đó chỉ là cái tiểu xảo lòe người. Tôi quả quyết rằng thi sĩ của các phái thơ khác kia họ làm thơ bằng óc nhiều hơn bằng tim. Hay bảo là: họ chỉ làm bằng óc, cũng được.
Sao lại nói là làm thơ bằng óc? Họ nghĩ rồi, bóp đầu, bóp trán như những nhà khảo cứu khoa học, để rồi… phát minh. Phải nên nói là họ "phát minh" ra mới đúng. Họ cầu kỳ đến khó chịu, chúng tôi đã phải mệt với những câu lảm nhảm vô vị mà gần đây người ta - vì theo thời thượng, trào lưu - xu phụ, tán dương"...
Rồi sau khi bình giảng các bài Xoan đỏ, Cô bé vườn đông, Một chút tình, Việt Châu đi đến kết luận:
"THƠ LƯU TRỌNG LƯ là thơ của người đời, thơ của thiên nhiên.
Và chỉ như thế mới là THƠ mà thôi.
Tôi sẽ thấy ai rất đáng bỉ, khi họ sẽ phê bình thơ Lưu Trọng Lư với những chữ: hứa hẹn, tài hoa, chân tài, thiên tài, v.v… Ông Lưu Trọng Lư, cũng như tác phẩm của ông không cần một chút xíu nào cái giọng phê bình rất nhạt (tuy rằng kêu) ấy.
Phải chăng, ông Lưu Trọng Lư! một tiếng khen thành thật, một niềm tri kỷ thanh cao quí gấp vạn lần lời xu phụ, tán - dương - vô - ý - thức?"...
Rồi đến khi Lưu Trọng Lư in bài thơ Vô liêu đến chiếc đồng hồ trên Tiểu thuyết thứ Bảy và bị phê phán khá nặng lời thì Ngô Vũ đã lên tiếng phản biện, phản vấn, công kích trở lại trong bài báo Hai bài thơ... hài hước? (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 343, ra ngày 1-1-1941) và đi sâu bình giảng nghĩa lý bài thơ:
"Báo Đồng thanh trong Nam vừa đây có một bài nói về hai bài thơ của Tiểu thuyết thứ Bảy đăng trong số 338, ra ngày 7 Dècembre 1940. Bài báo ấy không ký tên, và có ý nói rằng chúng tôi đã cho đăng lên báo mình hai bài thơ “hài hước” mà không biết. Hài hước bởi vì tác giả bài báo kia đọc lên không hiểu chi chi cả...
…Còn bài thứ hai của thi sĩ Lưu Trọng Lư thì lại càng dễ hiểu hơn nữa, bởi thi sĩ đã để hai câu Kiều này lên trước:
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái bốn mùa gió trăng.
Hai câu Kiều tỏ rõ cái tâm trạng của một kẻ nhớ cảnh xa xôi rộng rãi của đời lang thang.
Thi sĩ tự vì mình với đôi kim đồng hồ đã dừng lại trên những giờ giấc của vợ con trong nhà:
Đôi kim đã chết trên giờ thê nhi.
Thi sĩ ở một cái tỉnh nhỏ buồn tẻ mà.
Sông bờ thưa vắng biệt ly,
mà dân thì hiền, của thì rẻ:
Người lành của rẻ có đi cũng sầu.
Bởi vậy, rượu uống một mình hình như cũng nhạt, thơ cũng hóa ra suông tình:
Thơ suông rượu cũng xuống mầu,
Người thơ rượu quanh quẩn chỉ những lên lầu rồi lại xuống lầu, như con ngựa chồn chân đập chân trong tầu ngựa hẹp:
Lên lầu rồi lại xuống lầu, dở say.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét