1) Thanh Tịnh(1911-1988) :

Sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911 tại làng Dương Nỗ, ngoại ô Huế.
Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.
Đỗ bằng thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa...
Sáng tác đầu tay của ông là truyện "Cha làm trâu, con làm ngựa" đăng trên Thần kinh tạp chí (1934).
Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường. Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông (Mòn mỏi, Tơ trời với tơ lòng) được Hoài Thanh giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).
Chân Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ.
Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng.
Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội.
Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, chuyên sáng tác. Ông đã là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I, II), ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông mang cấp bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu.
Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thanh Tịnh - tên thật: Trần Văn Ninh, sinh ngày 12.12.1913 tại làng Dương Nổ, Thừa Thiên Huế. Ông là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở nửa cuối những năm 30 của thế kỷ 20 . Thơ Thanh Tịnh có phong cách nhẹ nhàng, thanh cao - đúng như bút danh ông chọn cho mình: Thanh (Trong sáng - cao sang). Tịnh (Tinh khiết - sạch sẽ). Nhà phê bình Nguyễn Tấn Long nhận xét :’’Thơ Thanh Tịnh có nhiều sắc thái biến chuyển do ngoại vật, ngoại hình xâm nhập hồn thơ và rung lên từng nhịp điệu riêng biệt mà ít khi bị ràng buộc bởi nội tâm...’’. Tập thơ đầu tay - Hận Chiến Trường, đã đưa ông lên hàng những nhà thơ nổi tiếng đương thời. Nhiều bài thơ của ông còn được đăng trên các báo Phong Hóa, Ngày nay, Tinh Hoa, Tiểu thuyết thứ Năm... Trong số đó có 2 bài gây được tiếng vang: Mòn Mỏi và Tơ trời với tơ lòng. Thanh Tịnh cũng là người đoạt giải nhất cuộc thi Thơ do Hà Nội Báo tổ chức năm 1936. Chúng ta cùng nhau đọc lại một trong hai bài thơ nổi tiếng kia:
TƠ TRỜI VỚI TƠ LÒNG
Còn nhớ hôm xưa độ tháng nàyCánh đồng xao xác lá đùa câyVô tình thiếu nữ cùng ta ngắmMột đọan tơ trời lững thững bay
Tơ trời theo gió vướng mình taMỗi khắc bên nàng nhẹ bỏ quaNgiêng nón nàng cười, đôi má thắmTa nhìn vơ vẩn áng mây xa
Tìm dấu hôm xưa giữa cánh đồngBên mình chỉ nhận lúa đầy bôngTơ trời lơ lửng vươn mình uốnĐể nối duyên mình với... cõi không.(Phong Hóa)Nếu trên Thi đàn, Thanh Tịnh đã gặt hái được thành công, thì trong Văn chương ông cũng là nhà văn được dư luận đánh gía cao, có vị trí trong lòng người đọc. Ngoài viết Khảo luận, Văn hóa, Thanh Tịnh có tập thơ Han Chiến Trường, 5 tập truyện sáng tác hồi 1936 - 1941 và 2 tập thơ, 1 tập truyện xuất bản hồi 1954 - 1980. Trong các sáng tác của ThanhnTịnh, đáng chú ý tập Quê Mẹ. Tôi còn nhớ một đoạn văn trích trong đó, tin rằng lớp học sinh tiểu học thời ấy - bây giờ đã lên ông, lên bà, lên cụ - khó ai quên: ’’Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm dắt tay tôi đi trên đường... tới trường...’’. Các bạncó đồng ý không: Hầu như đưa con lần đầu tiên đến trường là các Mẹ. Dù là bé trai hay bé gái, chúng đều muốn được Mẹ dắt tay đưa tới nơi mà chúng e ngại vì lạ lẫm. Dường như lúc này, Mẹ là điểm tựa vững chắc của bé. Tôi cũng có cảm giác như vậy: Mẹ tôi là người đàn bà thôn quê nhưng rất đẹp, cái đẹp thuần khiết của người phụ nữ Việt cổ: Mặt trái soan, tóc xanh, mắt đen huyền, ’’Mắt sáng, môi hồng, má đỏ ău’’ (1) -nghiã là đầy đủ tố chất của người đàn bà đẹp. Sau này, lớn lên, được đọc một bài khảo cứu về nhân chủng hoc (tôi không còn nhớ tên tác gia ) - viết rằng: Đặc trưng của người Việt cổ có một điểm rất dẽ nhận: Ngón chân cái toãi ra, người ta gọi đó là ’’Bàn chân Giao Chỉ’’. Mẹ tôi có bàn chân như thế. Đến độ: Nếu có tiền mua giầy, Người cũng không thể đi được, gần cả cuộc đời đi chân đất. Về gìa, chúng tôi sắm cho Người đôi dép... thửa riêng. Mẹ không biết chữ, chỉ được bố dậy một chữ kí, thay vì phải điểm chỉ. Buổi sáng, hôm mẹ đưa tôi tới lớp nhờ thầy dậy dỗ - đúng là ’’đầy sương thu và gió lạnh’’, vì đó là cuối thu, vào đông. Đến giờ - đã gần 60 năm trôi qua - tôi vẫn nhớ rõ buổi mai hôm ấy... Thanh Tịnh đã ghi lại hộ lũ trẻ ở thôn quê giờ phút thiêng liêng - lần đầu đến lớp học - bằng đoạn văn ‘’xuất thần’’, kia . Hình ảnh về Mẹ làm tôi nhớ rõ nhất: Người nhuộm răng đen, mỗi khi cười hàm răng đen nhánh như chùm những hạt (qủa) na - đúng như Lưu Trọng Lư viết về hình ảnh mẹ mình trong bài thơ Nắng Mới - nổi tiếng một thời :NẮNG MỚIMỗi lần nắng mới hắt bên songXao sác gà trưa gắy não nùngLòng rượi buồn theo thời dĩ vãngChập trùng sống lại những ngày không
Tôi nhớ Mẹ tôi thuở thiếu thờiLúc người còn sống tôi lên mườiMỗi lần nắng mới gieo ngoài nộiÁo đỏ người đưa trước dậu phơi
Hình ảnh Mẹ tôi chửa xóa mờHãy còn mường tượng lúc vào raNét cười đen nhánh sau tay áo Trong buổi trưa hè trước dậu thưa.’’
Phong trào cách mạng mùa thu năm 1945 dâng cao. Cũng như nhiều thanh niên đương thời, Thanh Tịnh tham gia cướp chính quyền ở Huế. Toàn quốc kháng chiến (1946), ông bỏ lại tất cả - Huế thưong, gia đình, vợ con - lên đường vào chiến khu 9 năm kháng chiến chống Pháp… Hòa bình lập lại, từ chiến khu, không kịp trở về thăm nhà, ông ra Bắc tập kết với suy nghĩ 2 năm sau sẽ về (cũng không muộn), vì Hiệp định Genève quy đụnh:, 2 năm sau cả nước sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tự do. Ai ngờ, cuộc ra đi đó kéo dài 20 năm. 20 năm ông vẫn chung thủy đợi chờ ngày tái ngô cùng gia đình. Ông sống đạm bạc, thủy chung (không lấy ai), trong khi nhiều người cùng hoàn cảnh tập kết như ông đã phải ’’đi bước nữa’’... Đất nước thống nhất, ông vội trở về Huế tìm vợ con, nhưng cuộc trở về không như ý muốn: Bà nhà và các con bị giòng thác chiến tranh cuộn trôi, phiêu bạt đến nơi nào ông không hề biết... Trong khi nhiều người vui mừng vì gặp lại người thân thì Thanh Tịnh thất vọng, lủi thủi trở về sống trong căn hộ nhỏ bé của lãng đạo Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội phân phối cho. Lại chiếc giừơng cá nhân, lại cơm niêu nước lọ, mòn mỏi đợi chờ... chờ... đợi... cho đến ngày 17 tháng 7 năm 1988, ông đã không thể chờ được nữa - ra đi vĩnh viễn trong tâm trạng - ``Mối tình mang (theo) xuống tuyền đài chưa tan``. Khi nhắm mắt xuôi tay vẫn không gặp được vợ con. Mấy năm sau, người con trai biết được tin về cha minh trở về tìm... nhưng đã qúa muộn. Anh chỉ còn cách duy nhất: Mang xương cốt cha về an táng ở Huế thân yêu - mảnh đất suốt đời Thanh Tịnh Mòn Mỏi... Thương nhớ - nhớ thương!Chúng ta hãy quay trở lại thời gian kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (1954). Trở về Hà nội, Thanh Tịnh công bố 1 tập thơ, 1 tập truyện ngắn. Có thể không gian để ông ’’vùng vẫy’’ trong thơ Tiền chiến là không gian dàn trải, mênh mông và đầy mộng mơ... còn không gian trong cuộc kháng chiến chống Pháp là cụ thể, có giới hạn, đầy cam go. Vì thế Thanh Tịnh không thể thích nghi với môi trường, kết qủa do ’’lệch pha’’, người đọc nhận ra chất lượng nghệ thuật của 2 tác phẩm này không sánh được với các sáng tác trước đó của ông... Mải tới năm 1957 - sau 11 năm xa nhà, xa vợ con, hai miền đất nước vẫn bị chia cắt - ông viết bài thơ diễn tả nỗi lòng của người con xa Huế. Tâm hồn xao động, nỗi nhớ Huế vẫn da diết, triền miên. Thanh Tịnh trút tình cảm của mình vào thi phẩm:
NHỚ HUẾ QUÊ TÔI
Sông núi vươn dài tiếp núi sôngCò bay thẳng cánh nối đồng khôngCó người bảo Huế, xa, xa lắm!Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòngGiọng hò mái đẩy - đặc trưng của Huế - cứ man mác, vang lên trong tâm tưởng ông. Giống như Thi sĩ Nguyễn Bính có cùng tâm trạng: Từ miền Nam ra Bắc tập kết, trong nỗi niềm ’’Ngày Bắc - Đêm Nam’’ - ghi lại cảm xúc ở bài Đêm sao sáng, có những câu làm người đọc xúc động: ’’Sao trời có bữa còn quên mọc. Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em’’. Thanh Tịnh không chỉ nhớ Huế về ban đêm mà nhớ không lúc nào nguôi:
Mười một năm trời mang Huế theoĐèo cao nắng tắt bóng cheo leoGiọng hò mái đẩy, vờn mây núiMan mác sông Hương lướt đỉnh đèoẤn tượng sâu đậm về Huế : Hình ảnh quê hương Huế đẹp và Thơ, ‘’Đèo cao nắng tắt bóng cheo leo’’, sông Hương núi Ngự Bình, mà còn có những người bạn chiến đấu đã nằm lại vĩnh viễn bên ven rừng, trảng cỏ, đồng không mông quạnh. Thậm chí chẳng còn dấu tích của nấm mồ ghi lại chiến công thầm lặng của người chiến sĩ hi sinh vì nền độc lập của tổ quốc:
Có bao người Huế không về nữaGửi đá ven rừng chép chiến côngCó mồ liệt sĩ nâng lòng đấtBuồm phá tam giang gió thổi lồngHuế chỉ còn đọng lại trong lòng tác gỉa với nỗi trầm mặc trước: Cổ thành, đền đài, lăng tẩm nguy nga tráng lệ, với sông Hương xao động mặt nước , với núi Ngự bình như vẫn còn đang ì ầm chuyển động trong lòng:
Lặng lẽ trăm năm bóng cổ thành Bao lần mắu đỏ nhuộm đồng xanhCờ sao ngày ấy trùm cung cấmSông nước xôn xao núi chuyển mình.Bài Nhớ Huế quê tôi có thể xem là dấu tích cuối cùng, là ngôi sao sáng chói lên rồi vụt tắt trong sự nghiệp thi ca của nhà thơ Tiền chiến tài danh. Bài thơ được người đọc đánh gía cao, nằm trong nhóm 100 thi phẩm hay nhất Việt Nam của thế kỷ 20. Sau sự kiện ‘’một bài’’, Thanh Tịnh gác bút… thơ. Nhưng không bị cuộc sống cô độc ảnh hưởng, ông tìm cho mình một lối sáng tác khác: Sáng tác độc Tấu - loại hình văn học có tác dụng , phục vụ hữu hiệu công tác tuyên truyền, gíao dục…Trước khi nói đến Tấu - Hài, cần nhắc lại: Trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tịnh ngoài sáng tác văn thơ, ông còn viết Ca dao, Tấu nói. Trong nhiều Ca dao kháng chiến của ông, chắt lọc được 2 câu độc đáo, đi vào lòng dân đến độ tên tuổi người sáng tạo ra nó bị mờ đi, biến thành ca dao của văn chương dân gian truyền miệng:
Dễ trăm lần không dân cũng chịuKhó vạn lần Dân liệu cũng xong.
(Có thể sau này, các nhà Tuyên huấn đã phát triển ý của hai câu thơ kia thành ’’Của Dân - Do Dân - Vì Dân’’, chăng)? Câu ca dao do chính ông viết nhưng rất nhiều người vô tình ’’Phủ định’’, cho rằng, đây là của giòng văn học dân gian. Mãi gần đây, giới nghiên cứu mới khẳng định đó là 2 câu của một bài ca dao của Thanh Tịnh. Nhờ vậy, ’’Đứa con tinh thần’’ mới được về với cha nó:Thi sĩ Thanh Tịnh.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------Về loại hình văn học mới mà Thanh Tịnh sáng tác là Tấu - Hài. Ông phát triển từ Tấu nói, viết hồi kháng chiến chống Pháp. Bộ đội là những chàng lính trẻ. Đời lính không chi có đánh đấm, chết chóc, bị thương mà rất cần có cho họ không gian thư giãn lành mạnh sau những trận đánh ác liệt. Vấn đề đặt ra cho cấp chỉ huy: Phải có gì giải trí cho họ. Tất nhiên đó là Văn nghệ (ca hát, hò vè, diễn kịch, báo tường). Thế nhưng người lính chiếm đa số là nông dân, văn hóa thấp. Vả lại thời gian biểu diễn cần phải nhanh, gọn nhưng các sáng tác - biểu diễn phải đạt được yếu tố gíao dục, tuyên truyền…. Thế là những đợt vận động trong giới văn nghệ sĩ sáng tác phục vụ thiết thực cho người lính - được phát động. Thanh Tịnh chọn cho mình hình thức sáng tác: Tấu - Hài. Không có loại hình văn nghệ nào đơn giản, dễ biểu diễn nhưng lại hiệu qủa bằng Tấu - Hài, bởi nền tảng của nó là kích thích đối tượng bật ra tiếng cười nhằm động viên, biểu dương cái tốt, phê phán thói hư tật xấu để người xem tự liên hệ phấn đấu tốt lên, tiến bộ hơn. Tấu - Hài gây cười, tác dụng gíao dục rất cao. Chính trong hoàn cảnh đó, các bài Tấu - Hài của những nhà văn - kể cả nghiệp dư - đáp ứng kịp thời yêu cầu của người lính. Sức thu hút, thuyết phục của độc tấu trở thành loại hình văn nghệ dân gian phát triển, không ngừng nâng lên. Nó thịnh hành không chỉ trong van nghệ quân đội, mà lan truyền ra tòan bộ sinh hoạt văn hóa của cả xã hội. Đến nỗi khi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lúc cuộc chiến ác liệt nhất, ngoài loại hình ’’Tiếng hát át tiếng bom’’, hoạt cảnh, kịch ngắn - độc tấu là tiết mục ‘’chủ soái’’ trong mọi cuộc trình diễn Văn nghệ. Bất cứ nơi nào có biểu diễn văn nghệ là ở đấy có Tấu - Hài. Đa số các tác gỉa viết kịch bản và nghệ sĩ biểu diễn đều không chuyên, tự biên theo mô típ sáng tạo của Thanh Tịnh.
------------------------------------------------------------------------------------
Về truyện ngắn Quê mẹ của Thanh Tịnh:
Thanh Tịnh nổi tiếng với Quê mẹ, tập truyện ngắn mang phong cách riêng gần gũi với Thạch Lam, Hồ Dzếnh trong những cảm nhận tinh tế và đượm buồn về cuộc sống của một lớp người nghèo nơi một làng quê miền Trung, xứ Huế, có tên là Mỹ Lý.
Làng Mỹ Lý trong văn Thanh tịnh cũng giống như bao làng quê khác của Miền Trung: có một dòng sông nhỏ chảy qua; một cánh đồng làng rộn vui vào mùa gặt hái khi trai bạn đến; những đêm trăng cho người lớn trò chuyện và trẻ nô đùa; cái quạnh quẽ của một bến đò ngày mưa; một con đường sắt xuyên qua đồng làng để giữa cánh đồng trơ trọ bỗng mọc lên một cái ga xép với tiếng còi vảng trong đêm, với tiếng bánh xe tay lăn trên đường đá đón một chuyến khách khuya…
Làng Mỹ Lý với những con người bình dị, chất phác với nếp sống quen thuộc từ lâu đời; những ước mơ và hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn sơ gắn với những lo âu muôn thủa của đời người; con gái lấy chồng xa về thăm Quê mẹ; đẻ con so về nhà mẹ; những vui – buồn thoát đến thoát đi trên sông nước – “thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long…”; mối tình vừa nhen nhóm bỗng lụi tắt giữa cô gái quê và thầy ký ga phải đổi vùng… Quê mẹ - ấy là những nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía về những phôi pha, bất trắc của cuộc đời. Cũng không hiếm những nỗi buồn quặn thắt, như nỗi buồn của ông lão mù cùng đứa cháu kéo những chuyến xe không khác trong Am cu ly xe; hoặc pha chút huyền bí trong cảnh người chồng, người cha hóa hổ vì ngậm ngải quá hạn trong Ngậm ngải tìm trầm. Rất lâu đời và tưởng như cứ vĩnh viễn mãi thế, cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn của những lớp người lao động nghèo khổ.
Đọc Quê mẹ để hiểu thêm về con người và cuộc đời trong xã hội cũ, với cái nghèo lưu truyền cùng những bất trắc và bất hạnh luôn luôn gắn với đời người. Nhưng cũng là để lưu lại tình đời và tình người, lưu lại sức chịu đựng và vượt lên những gian nan thử thách, nhờ nó mà con người có thể tồn tại, hơn thế, thỉnh thoảng cũng có được sự an ủi và bù đắp trong những niềm vui đơn sơ, bình dị.
Quê mẹ - đó còn là những trang thật trong trẻo và đầy dư vị tuổi thơ, chắc không riêng lứa tuổi tôi mới có thể dễ dàng thuộc lòng, như những trang Tôi đi học: “Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm miên man của buổi tựu trường”. Những trang vui và ngộ nghĩnh trong tiếng trẻ học bài: “Rắn là một loài bò … sát không chân”, ở một tuổi thơ đã biết cách chia sẻ và “can thiệp” vào tình yêu của người lớn trong cái truyện có tên Tình thư.
Và tình yêu, trong Bến nứa, Quê bạn, Tình trong câu hát. Bên con đường sắt… những mối tình vừa man mác vừa tha thiết, tất cả đều đượm buồn và không thôi trĩu nặng lòng người, vì hạnh phúc trong đời đối với mọi lớp người nghèo là quá mong manh và xa vời trong mong mỏi và ao ước.
Từ hơn nửa thế kỷ qua, Quê mẹ gắn với Thanh Tịnh, như một biểu tượng cụ thể của tình quê hương. Đọc Quê mẹ để hiểu khi người viết có thêm một tình yêu tha thiết với mảnh đất quê với cảnh và người một vùng cụ thể, họ sẽ thổi được một sự sống riêng, tỏa được một hơi ấm riêng, khiến cho những trang viết bỗng dưng có hồn, để trở thành một lưu luyến, khắc khoải cho người đọc thuộc nhiều thế hệ. Quê mẹ của Thanh Tịnh, đó là làng Mỹ Lý, cũng như quê ngoại của Tô Hoài – làng Bưởi ven đô Hà Nội; “quên ngoại” Hồ Dzếnh – một vùng sông nước xứ Thanh; rồi “quê nội” của Võ Quảng – thôn Hòa Phước, một làng quê ven sông Thu Bồn… ấy là biểu tượng của làng quê, là sự sống của tình quê trong hành trình lịch sử.
Những “quê mẹ” rồi “quê ngoại” và “quê nội” trong văn xuôi dành cho tuổi thơ nói riêng và người đọc rộng rãi nói chung, những tên riêng khơi gợi hoặc đánh thức bao lưu kuyến về tình quê hương, để từ một quê hương cụ thể mà nâng lên tình đất nước – đó là con đường đi, là chu trình vận hành, là đóng góp cụ thể của văn xuôi hiện đại mà Thanh Tịnh là thuộc số ít người có công khởi động và để lại được dấu ấn theo thời gian cho đến hôm nay.
Mong cho mỗi người đọc, trước hết là những bạn đọc nhỏ tuổi có một “quê mẹ” cụ thể, hoặc “quê mẹ” trong tâm tưởng, trong tinh thần để nhớ thương và lưu luyến trong cái thời của cách mạng khoa học – kỹ thuật, của quá trình đô thị hóa đang xóa dần ranh giới nông thôn và thành thị.
-----------------------------------------------------------------------------------------------
Trả lại cho Thanh Tịnh hai chữ "Hoang mang"
Có lẽ khó có một đoạn Việt văn nào trong trẻo và hay đến thế khi viết về kỷ niệm buổi đầu đi học. Đó là đoạn văn của Thanh Tịnh trích trong tập Quê mẹ, viết từ thời tiền chiến, đã trở thành kỷ niệm của rất nhiều cô cậu học trò qua bao thế hệ. "Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường…"
Nhà văn Thanh Tịnh có lý do để dùng chữ "hoang mang". Ông giải thích 3 lý do: (1) Cậu trò nhỏ nép bên người thân, chỉ dám đi từng bước nhẹ, chốc nữa đây người thân về rồi thì sẽ ra sao? (2) Họ như con chim nhìn quãng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng e sợ. (3) Họ ước ao thầm được như những người học trò cũ, biết lớp biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Bất chấp 3 lý do đó, đùng một cái, đoản văn bất hủ này xuất hiện trong sách tập đọc những năm sau này đã bị các nhà biên soạn bỏ mất 2 chữ "hoang mang" và thay vào đó bằng từ "mơn man" thực vô nghĩa và hoàn toàn không phù hợp với văn cảnh và tâm trạng của cậu học trò lớp một. Sự thay đổi này không biết có được phép của nhà văn Thanh Tịnh hay chưa? Và làm như thế có tuỳ tiện với di sản văn chương và vi phạm luật bản quyền hay không?
Trở lên là chuyện văn chương. Nay không nói đến chuyện văn chương nữa. Trở về với cuộc sống. Trở về với ngày khai trường năm nay của những cô cậu học trò mới lớn, những người sẽ thành cô tú, cậu tú nay mai. Này tôi hỏi bạn, bạn có chút chi vương víu "hoang mang" không? Này là lớp mình có cùng nhau đi đến bờ đến bến không? Ai đỗ, ai trượt? Ai sẽ bị bỏ học giữa chừng vì cơm áo? Này là mẹ cha có đủ việc làm, có đủ thu nhập cho con yên tâm đến lớp? Này là thầy cô giáo, ai dữ, ai hiền? Có ai bắt học sinh phải liếm ghế, "thụt dầu"? Có ai đủ tình thương, có ai thô bạo "mày tao, lợn gà" với đám trò nhỏ? Thầy có đủ sức để dạy hay không, nhà trường có "mạnh dạn đổi mới" hay rụt rè thế thủ? Có đủ trường lớp hay phải học ca ba? Thi tốt nghiệp năm nay sẽ ú tim môn gì?…
Vậy là vẫn còn đó bao nhiêu điều để "hoang mang". Lựa chọn một thái độ tích cực là xã hội phải phấn đấu để cho mỗi ngày đến lớp của các em là một ngày vui, không còn một chút vương víu hoang mang. Là "ngành giáo dục - đào tạo phải cương quyết khắc phục những mặt hạn chế yếu kém, mạnh dạn đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục" như lời động viên của Chủ tịch nước Trần Đức Lương trong thư gửi thầy trò nhân ngày khai giảng năm học mới 2004-2005.
Nhà văn Thanh Tịnh có lý do để dùng chữ "hoang mang". Ông giải thích 3 lý do: (1) Cậu trò nhỏ nép bên người thân, chỉ dám đi từng bước nhẹ, chốc nữa đây người thân về rồi thì sẽ ra sao? (2) Họ như con chim nhìn quãng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng e sợ. (3) Họ ước ao thầm được như những người học trò cũ, biết lớp biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Bất chấp 3 lý do đó, đùng một cái, đoản văn bất hủ này xuất hiện trong sách tập đọc những năm sau này đã bị các nhà biên soạn bỏ mất 2 chữ "hoang mang" và thay vào đó bằng từ "mơn man" thực vô nghĩa và hoàn toàn không phù hợp với văn cảnh và tâm trạng của cậu học trò lớp một. Sự thay đổi này không biết có được phép của nhà văn Thanh Tịnh hay chưa? Và làm như thế có tuỳ tiện với di sản văn chương và vi phạm luật bản quyền hay không?
Trở lên là chuyện văn chương. Nay không nói đến chuyện văn chương nữa. Trở về với cuộc sống. Trở về với ngày khai trường năm nay của những cô cậu học trò mới lớn, những người sẽ thành cô tú, cậu tú nay mai. Này tôi hỏi bạn, bạn có chút chi vương víu "hoang mang" không? Này là lớp mình có cùng nhau đi đến bờ đến bến không? Ai đỗ, ai trượt? Ai sẽ bị bỏ học giữa chừng vì cơm áo? Này là mẹ cha có đủ việc làm, có đủ thu nhập cho con yên tâm đến lớp? Này là thầy cô giáo, ai dữ, ai hiền? Có ai bắt học sinh phải liếm ghế, "thụt dầu"? Có ai đủ tình thương, có ai thô bạo "mày tao, lợn gà" với đám trò nhỏ? Thầy có đủ sức để dạy hay không, nhà trường có "mạnh dạn đổi mới" hay rụt rè thế thủ? Có đủ trường lớp hay phải học ca ba? Thi tốt nghiệp năm nay sẽ ú tim môn gì?…
Vậy là vẫn còn đó bao nhiêu điều để "hoang mang". Lựa chọn một thái độ tích cực là xã hội phải phấn đấu để cho mỗi ngày đến lớp của các em là một ngày vui, không còn một chút vương víu hoang mang. Là "ngành giáo dục - đào tạo phải cương quyết khắc phục những mặt hạn chế yếu kém, mạnh dạn đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục" như lời động viên của Chủ tịch nước Trần Đức Lương trong thư gửi thầy trò nhân ngày khai giảng năm học mới 2004-2005.
Phải vậy thôi! Nếu có phải trả lại cho nhà văn Thanh Tịnh 2 chữ "hoang mang" thì cũng chỉ vì lý do văn chương mà thôi, không vì cuộc sống!
__________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét