Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

"Thơ khó" hay câu chuyện của những giới hạn


Viết bởi duongloan   
Chủ nhật, 29 Tháng 1 2012 17:18
Trong một bài viết có tên “Thơ khó” đăng trên báo Ngày nay, số 145, thứ Bảy, 14 Janv, 1939, Xuân Diệu đã diễn giải những suy ngẫm của mình về hai lối thơ:
dụng tâm khó và khó một cách vô tâm, chuyển dẫn từ quan niệm và thực hành thi ca của Mallarmé, Baudelaire,… Theo Xuân Diệu, “Mallarmé đã cố ý làm cho thơ của ông tối tăm, bí hiểm; ông đã giấu nghĩa của thơ ông để thiên hạ đi tìm” (Thơ khó – Xuân Diệu). Khi sáng tạo, Mallarmé nghĩ đến độc giả như là một người chơi trong cuộc ú tim chữ nghĩa mà tác giả là người tổ chức, sắp đặt. Sáng tạo theo đường hướng này là một cách làm cho thơ trở nên “khó” trong sự tiếp nhận của độc giả. Trong cách diễn giải của Xuân Diệu rõ ràng lỗi thuộc về độc giả. Cái khó “cao kỳ” cả về ý tưởng và hình thức trong thơ Mallarmé hay P.Valéry “Đấy là cả một chủ nghĩa, cả một lý thuyết; cười cợt hay chế giễu sự “bí hiểm” của hai ông, việc ấy rất dễ làm, và chỉ tỏ ra rằng ta có một trí não tầm thường, nông nổi”. Từ suy nghĩ ấy, Xuân Diệu gợi ý thái độ “kính nhi viễn chi” đối với hình thái thơ này. Khó trong lối thơ của Mallarmé là khó có dụng tâm. Đẩy độc giả lâm vào tình thế “bất khả giải” chính là mục đích trong sáng tạo của các thi sĩ này.
Có một lối “khó” khác, theo Xuân Diệu là “khó một cách rất vô tâm” mà đại diện tiêu biểu là Ch.Baudelaire. Lối thơ này, nhà thi sĩ không nghĩ đến độc giả, hay đúng hơn là chỉ chú ý theo đuổi ý tưởng, cảm xúc của mình, khám phá những vùng mĩ cảm mới trong tinh thần của bản thân. Làm thơ theo lối này, thi sĩ “chỉ đuổi theo những hình sắc trong trí tưởng, chỉ thu lấy những âm điệu của tâm tư, vội vàng nhón chân lên hái những hoa lạ”. Những bông hoa lạ ấy có thể là Hoa ác (Baudelaire) hái lên từ Một mùa ở địa ngục (Rimbaud) – nghĩa là một giới hạn khác của mĩ cảm, đôi khi nó khiến cho công chúng thấy “khó” bởi không cùng thi sĩ đi về những nẻo lạ ấy.
Hai lối “thơ khó”, Xuân Diệu đều bày tỏ sự trân trọng, và đặt định những khả thể cho thi ca Việt Nam thời các nhà thơ mới cho rằng thơ ca truyền thống đã không còn đủ sức biểu tỏ tinh thần của cá nhân và thời đại. Xuân Diệu hướng mình theo Baudelaire, nhưng ông không hái được những bông “hoa lạ”. Đến Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Đinh Hùng, Xuân Thu nhã tập và Dạ đài mới thực sự khiến người ta hiểu hơn về khái niệm “thơ khó”. Các nhà thơ vừa nêu, họ đã đi xa hơn Xuân Diệu về phía Baudelaire, Rimbaud và cả Mallarmé, để đẩy thơ mới Việt Nam 1932 – 1945 về miền tượng trưng, siêu thực. Nghĩa là, thơ trữ tình Việt Nam đến thơ mới 1932 -1945 đã đi được bước dài về hướng hiện đại hóa, tiến gần hơn đến hình thái thơ ca của thế giới.
Quan niệm về “Thơ khó” là một “tuyên ngôn” về giới hạn của Xuân Diệu, cũng như là sự thác lời của “cộng đồng diễn giải” trước các hiện tượng thơ cách tân xa hơn những vùng tư duy và mĩ cảm của công chúng tiếp nhận. Xuân Diệu là một độc giả, thậm chí có thể xem là một độc giả tinh anh, thế nhưng, trong bài “Thơ khó” chính Xuân Diệu đã nói lên giới hạn của mình. Dù đã kêu gọi sự “kính nhi viễn chi” của độc giả trước các hiện tượng thơ khó, dù đã bày tỏ “niềm tin” trong sự bất khả giải trước giá trị của “thơ khó” nhưng chính Xuân Diệu lại phản ứng khá gay gắt trước thơ điên của Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Đinh Hùng, thơ ca của Xuân Thu nhã tập và Dạ đài có lẽ là những “ca khó” đối với Xuân Diệu. Danh hiệu “mới nhất trong các nhà thơ mới” mà Hoài Thanh đặt định cho Xuân Diệu dẫu đã được nhắc đi nhắc lại hơn 70 năm qua nhưng rõ ràng là thiếu đi sức thuyết phục cần thiết. Nếu đem quan niệm về thơ mới của Xuân Diệu, diễn giải trên tinh thần “thơ thuần túy” của Mallarmé,…ta thấy Xuân Diệu “cũ” hơn rất nhiều thi sĩ khác thời thơ mới. Lương Đức Thiệp trong Việt Nam thi ca luận (Khuê văn xuất bản cục, MXMXLII) đã cho rằng thơ Xuân Diệu, Huy Cận chẳng có gì là khó hiểu. Khó hiểu hơn, quái dị, lạ lùng là thơ của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Thu nhã tập. Cùng với thời gian, sau nhiều cân nhắc, sàng lọc của lịch sử, những hiện tượng thơ “mới” hơn Xuân Diệu càng chứng tỏ kết luận của Hoài Thanh có nhiều hạn chế. Lý do không phải quá khó kiếm tìm. Hoài Thanh cũng đã tự giới hạn mình trong chân trời của mĩ cảm và tư duy lãng mạn. Khi Baudelaire đi tìm nguồn mĩ cảm mới từ Hoa ác (1857), khi Rimbaud gặt hái cả Một mùa ở địa ngục (1873), ở Việt Nam (cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ XX), Hàn Mặc Tử có Thơ điên, Bích Khê có Tinh huyết, Chế Lan Viên có Điêu tàn, Đinh Hùng có Mê hồn ca (hoàn thành bản thảo từ 1943), Đoàn Phú Tứ có Màu thời gian, Nguyễn Xuân Sanh có Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu, Phạm Văn Hạnh có Giọt sương hoa,… Xuân Diệu quả đã đuối sức trong chuyến đập cánh về chân trời của sự cách tân, làm mới thơ ca.
Trên phương diện sinh thành học, thơ mới 1932 – 1945 có những tương đồng với thơ đương đại. Từ điểm nhìn của thơ mới 1932 – 1945 nghĩ về thơ đương đại, nhìn nhận một vài hiện tượng thơ dưới quan niệm “khó” của Xuân Diệu, chúng ta có thêm những luận giải về tính tất yếu trong sự sinh thành, phát triển của các hình thái thơ ca.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét